Olivia gây náo loạn
Billy Raven nằm thức thao láo. Mới hai tuần trước nó còn ngủ một mình trong phòng ngủ chung dài thượt. Giờ nó đã phải làm quen với những tiếng ngáy, tiếng nói mớ, tiếng thở khò khè và thút thít của những thằng bé khác. Điều đó không phải dễ dàng. Billy vốn là đứa ngủ rất yên.
Đêm nay, nó vô cùng phấn khích. Nó đã có chuyện để kể cho lão Ezekiel Bloor nghe. Chắc thể nào nó cũng sẽ được thưởng. Khi đã chắc chắn bọn kia say ngủ cả rồi, Billy xỏ chân vô đôi dép lê và choàng thêm chiếc áo khoác. Ván sàn hơi kẹt lên vài tiếng khi nó bước qua phòng và lỉnh ra ngoài.
Manfred Bloor đã tặng nó món quà Giáng sinh: một chiếc đèn pin dài đen nhẫn, tỏa ánh sáng cực mạnh. Billy không hề mong đợi lại được huynh trưởng tặng quà, nhưng khi Manfred cúi xuống thì thầm:
“Bọn ta phải giữ cho các điệp viên của mình được sung sướng chớ,” thì Billy hiểu liền.
Nó bật đèn pin lên và một luồng ánh sáng sắc lẻm quét xuống tận cuối hành lang. Billy bắt đầu cuộc hành trình dài lên khu vực trên cùng của chái phía tây. Thường thì nó vẫn chờ May Phúc dẫn đi, nhưng đêm nay nó không thể chờ nổi.
Khi Billy lần đường gần căn phòng của lão già, nó phải khó nhọc dò dẫm vượt qua một khu vực lúc nào trông cũng u ám. Đó là một trong số ít ỏi những nơi mà phép thuật kém cỏi của lão già còn có thể phát huy tác dụng đúng như lão mong muốn. Vì vậy mà bàn chân mang dép lê của Billy tuyệt nhiên không để lại dấu vết trên lớp bụi dày, và những mạng nhện thì tự đan kết lại như cũ ngay sau khi nó đi qua. Nếu không có những tiếng rít thỉnh thoảng nổi lên từ chiếc đèn khí, thì người ta có thể nghĩ những bậc thang cọt kẹt và những hàng lang tối um này đã bỏ hoang cả trăm năm rồi.
Billy đi tới một cánh cửa đen, lớp sơn bong tróc do bị con chó cào trong nhiều năm. Nó gõ cửa hai tiếng. Một giọng ộp ộp cất lên:
“Ai đó?”
“Billy Raven,” Billy nói.
“Vô đi, Billy Raven,” cái giọng đó bảo.
Billy bước vô.
Lão Ezekiel Bloor ngồi trên xe lăn bên cạnh lò sưởi. Một tấm chăn bằng da cừu bọc quanh vai lão, và gương mặt giống như hộp sọ lâu năm của lão lòi ra bên dưới cái nón len màu đen. Đỡ sau lưng lão là một đống gối nệm nhung bạc màu, và chiếc áo khoác nhung đen của lão mặc nổi bật những hàng nút bằng vàng. Mặc dù đã được khoác cả mớ áo quần trang trọng như thế, Billy vẫn thấy lão giống như một con cừu chết. Không đợi mời, thằng bé ngồi phịch vô chiếc ghế đối diện với lão già. Sự thay đổi bầu không khí đột ngột khiến nó chóng mặt.
“Con chó đâu?” Lão già giật giọng nói.
“Cháu không biết. Cháu không đợi nó được. Cháu muốn kể cho ông một chuyện.”
Mắt kính của Billy bị mờ sương vì không khí trong phòng đầy hơi nước. Nó tháo kính ra và chùi chùi bằng ngón tay dài.
“A, tốt. Chuyện về Charlie hả?” Lão già dướn về trước, vẻ háo hức.
“Kiểu kiểu vậy… ,” Billy nhát gừng.
“Nào nào. Kể đi, kể đi.”
“Ừm, đúng ra là May Phúc. May Phúc trông thấy nó.”
“Nó?” Lão già rít lên. “Nó? Nó là cái gì? Con chó đó tên là Thương Hại. Ông đã bảo mày bao nhiêu lần rồi!”
“Xin lỗi. Nhưng cháu nghĩ tên nó là May Phúc.”
“Rồi rồi, thây kệ. Tiếp tục đi!” Lão Ezekiel Bloor vẩy tay nôn nóng.
Billy đeo kính trở lại, và nó hối hận vì đã đeo vô. Gương mặt khô quắt của lão già chợt bị phóng to, sát lại một cách dễ sợ. Billy có thể thấy rõ rành rành từng cái mụn cóc và từng cọng lông cứng.
“Con chó đó tự nhiên tru lên nên anh Manfred bảo cháu ra coi có chuyện gì, vì anh ấy biết cháu có thể hiểu được chó nói chuyện, thế đấy.”
“Giá mà tao có thể hiểu được cái con chó ghẻ lở đó,” lão Ezekiel Bloor lắc đầu. “Thế nó nói gì?”
“Nó nói nó thấy một thằng bé, không biết từ đâu chui ra. Thằng bé này có một quả bóng, rất nhỏ, sáng loáng. Nó bảo thật là tệ… ”
“Cái gì?” Lão già bụp tay lên miệng. “Cái gì? Một thằng bé… và… quả bóng đó bằng pha lê phải không?”
“Có lẽ vậy,” Billy nói, ngạc nhiên vì sự sửng sốt mà tin tức của nó gây ra.
“Không, không, không thể thế được.” Lão Ezekiel định đứng lên, nhưng đôi cẳng vô dụng níu lão rơi phịch xuống, và lão chìm nghỉm vô cái tổ kén bằng len, lông cừu và nhung của lão.
“Xong rồi cháu thấy Charlie Bone ở trong tiền sảnh, May Phúc nói Charlie Bone trông giống thằng bé mới xuất hiện kia.”
Billy mỉm cười và chờ xem tác dụng của những lời nó bẩm báo. Và nó đã không phải thấy vọng.
“Charlie Bone,” lão Ezekiel thở gấp. “Phải, phải, đúng rồi. Trông nó hơi giống Charlie Bone. Hèn chi tao không thể chịu nổi cái thằng đó. Đi tìm nó ngay, Billy. Mang nó tới đây.”
“Ai? Charlie ạ?”
“Không, đồ ngu. Thằng kia kìa. Thằng em họ của tao, thằng Henry ấy!”
“Em họ của ông?” Billy lặp lại, mặt nó thộn ra. “Tìm bằng cách nào? Cháu có biết ông ấy ở đâu đâu.”
“Mày vừa nói với tao là nó ở trong tòa nhà naỳ. Như thế thì không khó khăn gì cả.”
“Ý ông nói thằng bé kia là… ”
“… Là em họ tao, đúng rồi. Tao đã tống khứ nó đi bao nhiêu năm rồi. Tao cứ nghĩ sẽ không bao giờ gặp lại cái đồ rác rười đó nữa.”
Giọng của lão già thõng xuống chỉ còn như những hơi thở thều thào.
“Chắc chắn là do thời tiết… kết hợp với nhiệt độ. Ồ ồ… Quả Cầu Xoắn Thời Gian hoạt động theo cách đó đó… ừm… ừm.”
Lão nhịp nhịp mấy ngón tay vô thành xe lăn.
Billy tò mò. “Quả Cầu Xoắn Thời Gian là cái gì ạ?”
“Đó là một vật nhiệm màu,” lão lẩm bẩm. “Một quả cầu pha lê, không lớn hơn viên bi là bao. Nó có thể xoắn mày lộn qua nhiều, nhiều năm. Hèn gì con chó không thích quả cầu. Đừng bao giờ nhìn vô nó nghe chưa, trừ phi mày muốn đi chu du, bà cô của tao đã nói với tao như thế đấy. Đi hỏi con chó coi thằng bé kia ở đâu. Con Thương Hại cái gì cũng biết. Đi ngay đi, và đóng cửa lại.”
Billy vô cùng thất vọng. Nó mong chờ ít nhất cũng phải được thưởng một tách ca cao nóng.
“Ờ… Ông nhớ ông có nói về chuyện ba mẹ cháu… ” nó mở lời.
“Ba mẹ? Mày làm gì có ba với mẹ,” Lão Ezekiel lơ đễnh. Rõ ràng tâm trí lão đang bận tâm cho thứ khác.
“Vâng. Nhưng mà ông bảo có người muốn nhận cháu làm con nuôi.” Billy nói, đầy hy vọng.
“Tao có nói thế à? Không nhớ. Bọn tao sẽ nói về chuyện ba mẹ mày khi nào mày tìm ra thằng bé kia. Đừng quên Quả Cầu Xoắn Thời Gian đấy.”
Xong lão Ezekiel đuổi Billy đi bằng cách phẩy một ngón tay vẹo vọ của lão.
Billy tuột khỏi ghế và lầm lũi đi ra cửa. Rồi nó quay lại lão già và nói.
“Cám ơn đôi ủng ông cho. Mấy chỗ nẻ vì lạnh ở chân cháu đỡ nhiều rồi.”
Lão Ezekiel ụt ịt. Lão không nghe Billy nói gì. Khi thằng bé đi rồi, lão nhìn trừng trừng vô những đốm lửa, và đột nhiên bật ra một tràng những lời nói và âm thanh quái lạ. Trên cái nền ấy, thỉnh thoảng cái tên “Henry” lại bật ra, rồi cụm từ “Quả Cầu Xoắn Thời Gian”. Một vài từ khác có thể nghe ra là “Không bao giờ!”, “không, không!”, “Tại sao?”, “Không thể được!”. Những từ đó tạt vô ngọn lửa đang cháy, mạnh đến nỗi làm nó kêu xèo xèo. Nếu lão già không thò tay vô cái hộp bằng bạc kế bên, và quẳng một nắm đóm mồi vô vỉ lò thì hẳn ngọn lửa đã tắt rồi. Nhưng những đóm mồi ma thuật này gây nên một tiếng nổ kinh hoàng, một cuộn khói đen bốc lên, lan khắp phòng, khiến lão già ho sặc sụa.
“Đồ vô dụng!” Lão chửi cái hộp bằng bạc ngây thơ vô tội.
° ° °
Charile tỉnh giấc. Nó không hiểu tại sao. Có cái gì đó đánh thức nó dậy. Đó là cái gì?
Tiếng chuông của đồng hồ nhà thờ xa xa bắt đầu điểm giờ ngân nga khắp thành phố. Vậy là đúng nửa đêm. Charlie bắt đầu thấy tê tê đằng sau gáy. Nó luôn cảm thấy như thế khi nghe đồng hồ gõ mười hai tiếng. Vừa lo sợ lại vừa phấn khích.
Một cái giường ở cuối phòng kêu lên cọt kẹt. Charlie thắc mắc không biết có phải Billy lúc nãy đi ra rồi bây giờ đi vô phòng. Và liệu Billy có bị phạt vì chuyện đó không? Học kỳ rồi Billy là người chiến thắng trò chơi trong khu bỏ hoang, và giờ nó là chủ nhân đầy kiêu hãnh của chiếc huy chương bằng đồng – một chiếc huy chương mang lại cho nó nhiều đặc quyền đặc lợi cùng với cả năm không bị cấm túc.
“Billy, em đó hả?” Charlie thì thầm.
Không có tiếng trả lời, nhưng có một tiếng “két” dài, và Charlie chắc chắn đó là từ giường của Billy.
“Em vừa đi đâu về vậy?” Nó hỏi.
“Không phải việc của anh,” lời đáp vang lên.
Đích thị là giọng của Billy. Charlie rúc vô tấm chăn. Nếu Billy muốn bí mật thì cứ để nó bí mật, Charlie nghĩ. Nó còn việc khác để mà lo lắng: giải cứu Henry. Toàn bộ công việc cần phải được lên kế hoạch cẩn thận. Trước tiên, nó cần phải mang một ít đồ ăn cho Henry. Nhưng nó chưa kịp quyết định nên làm việc ấy theo cách nào thì đã ngủ thiếp đi mất.
Trong khi đó, giấc mơ của Fidelio lại rất được việc. Trong mơ, nó đã phác cho Charlie cách lẻn vô tháp nhạc sau bữa trưa. Nhưng chúng cần được trợ giúp.
Vào bữa sáng hôm sau, Fidelio nói kế hoạch của mình cho Charlie.
“Olivia sẽ làm được,” nó nói thầm vô tai Charlie. Dù xung quanh chúng rất ồn ào và huyên náo, Fidelio vẫn không muốn kế hoạch của mình bị nghe lõm.
“Olivia? Nhưng nó làm cách nào?” Charlie nói khẽ. Nó cố mấp máy môi thật ít, vì Billy Raven, ngồi đối diện, đang nhìn chúng một cách lộ liễu.
Fidelio cũng nhận thấy tia nhìn chằm chặp của Billy. Nó quay đầu khỏi bàn và thì thầm:
“Olivia sẽ tìm cách đánh lạc hướng Manfred và Asa Pike. Tụi mình cần có người ngăn không cho hai thằng ấy ra tới tiền sảnh, trong khi em đi qua cửa lên tháp. Cả hai chúng nó sẽ ăn trưa trong căn tin của khoa kịch; nếu Olivia có thể giữ chúng lại chừng vài phút thì em sẽ có đủ thời gian. Sẽ không còn đứa nào khác bỏ công theo dõi tụi mình đâu.”
“Hai đứa mày to nhỏ cái gì vậy?”
Charlie và Fidelio ngẩng lên thì thấy Manfred Bloor, đang đứng tì thân vô ghế của Billy. Hắn đang quan sát chúng kỹ càng. Cứ như thằng Billy kia đã kêu hắn đến vậy.
“Này, tiết lộ bí mật của mày đi, Charlie Bone!” Đôi mắt đen của Manfred lóe lên thật hiểm độc.
Charlie lập tức cúi gằm xuống. Nó biết nó có thể chiến đấu với ánh nhìn thôi miên của Manfred, nhưng nó không muốn lôi thôi với thằng huynh trưởng một khi chưa cứu được Henry.
Fidelio nói nhanh, “Tụi em đang bàn luận về mái tóc của Olivia Vertigo.”
“Vậy hả?” Manfred nhướn đôi mày đen ngỏng lên.
“Dạ phải, em nghĩ nó nhuộm tóc xanh da trời coi dễ thương hơn,” Charlie tiếp lời. “Nhưng tụi em không nói to, sợ nó nghe thấy.”
“Nghe như thật nhỉ,” Manfred cay độc. “Ở đây có yên lặng đâu mà phải thì thào?” Về cá nhân anh, thì anh nghĩ con bé ấy trông như ma.
Câu cuối cùng hắn rít lên, và, vừa nghe nhắc đến tên mình, Olivia ngoái đầu lại từ chiếc bàn đằng sau. Trông thấy bộ mặt nghiêm trang của Charlie, Olivia liền nhăn mặt, rồi quay lại, tiếp tục tấn công món cháo bột yến mạch.
Manfred bỏ đi và bắt đầu la lối một nữ sinh lỡ mặc áo chùng trái.
“Phuù!” Charlie thở hắt ra. “Tụi mình để giờ giải lao hẵng nói chuyện.”
“Hay đấy,” Fidelio tán thành.
Cho đến lúc hai đứa xoay sở mà tách được Olivia ra khỏi đám bạn của con bé, thì giờ giải lao đã gần hết. Olivia nhảy cà tưng trên tuyết trong đôi ủng màu tím chằng chịt dây nhợ, có đính thêm những khoen xê-quin tròn.
“Tuyết làm trôi hết màu rồi,” nó ca cẩm, giơ bàn chân trái lên. Mũi ủng bên này xám xịt, nham nhở.
“Olivia, tụi này cần bồ giúp,” Charlie vô thẳng vấn đề!
“Hả?” Olivia thả bàn chân trở lại tuyết. “Giúp cái gì?”
Charlie biết không thể nào thuyết phục được Olivia làm gì nếu không giải thích thỏa đáng, cặn kẽ. Olivia cần phải biết về Henry Yewbeam trước khi đồng ý giúp. Vì vậy, nhanh hết sức, Charlie kể cho nó nghe hết tất cả mọi chuyện…
Mép Olivia trễ xuống và đôi mắt xám của nó trợn tròn lên.
“Tức là anh ấy tự bay vèo vèo ra khỏi quá khứ rồi bây giờ tới đây à?”
“Phải.”
Charlie ngoái nhìn ra sau. Nó nhác thấy Billy Raven lảng vảng phía sau một nhóm học viên khoa nhạc.
“Nhưng tụi này muốn giữ bí mật cho đến khi kiếm ra cách để giúp anh ấy. Mình cần phải đem cho anh ấy một ít đồ ăn.”
“Tụi này tính giờ ăn trưa Charlie sẽ lén đưa phần xúc xích của anh lên tháp,” Fidelio nói, “nếu em có thể giữ chân Manfred và Asa thêm một vài phút trong căn tin của khoa em thì tuyệt.”
“Không thành vấn đề,” Olivia nói chắc. “Cứ để đó cho em.”
Một hồi còi đi săn dài, đinh tai rúc lên, đẩy bọn trẻ đang tíu tít rời khỏi sân, và Olivia vọt đi, nhập vô nhóm bạn của mình.
“Tụi mình phải tin tưởng Olivia thôi,” Charlie nói. “Thường thì vẫn tin nó được.”
Mỗi khoa có một căn tin riêng, và căn tin của khoa kịch luôn luôn ồn ào nhất và vô kỷ luật nhất. Manfred thường xuyên ráng sức mà ngăn cấm tụi nó không được mang những đôi giày kiểu cọ và những loại váy dài quái dị, nhưng các giáo viên của khoa kịch lại hay xuê xoa với nội quy. Rất hiếm khi họ phàn nàn về thẩm mỹ trong việc chọn lựa trang phục của học trò mình, mà thật ra, họ còn khuyến khích những chiếc mũ có tai, những đôi giày quái chiêu và cả việc vẽ mặt bằng đủ màu sắc. Cô Marlowe, trưởng khoa kịch, nhấn mạnh rằng quần áo như một phương tiện để thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình, và càng lập dị càng tốt. Tất cả những điều này khiến Manfred tức lộn ruột, nhưng hắn không làm gì được cả, cho nên hắn trút giận sang bọn trẻ của khoa hội họa và khoa nhạc.
Hôm nay căn tin của khoa kịch thật hỗn độn. Áo khoác của ai đó bị rụng lông. Lông trắng bay khắp sàn nhà. Rồi nón của ai đó bị lột da. Những mẩu da trôi lều bều trong tô nước thịt. Giấy màu bị nhét vô nệm ghế, còn bàn thì bề bộn những mẩu sơn, kim tuyến cùng những lọn tóc giả.
“Tởm lợm,” Manfred làu bàu, trợn mắt nhìn một chiếc khoen xê-quin rớt vô món sữa trứng của nó. “Tại sao mọi người lại không thể chỉnh tề hơn, hả?”
Nó, nó ưa màu đen, và thỉnh thoảng diện áo sơ mi tím cho tiệp với màu chiếc áo chùng. Ngay cả dải ruy-băng trên túm đuôi ngựa của nó cũng màu đen.
Asa Pike cười khẩy một cách căng thẳng. Bộ ria mà nó thích đeo vừa rớt xuống dĩa.
“Hự,” nó nói. “Quên mất là mình đang đeo ria.”
Manfred bắn cho thằng bạn đồng hành một cái nhìn khinh miệt.
“Có những lúc, Asa à, anh chỉ khoái đá cho mày một cái ra trò.”
Đôi mắt vàng của Asa vằn lên một tia khủng khiếp. Manfred bắt đầu hối hận vì lời nói của mình. Hắn và Asa không phải là bạn bè thật sự, chúng gắn với nhau vì tất cả mọi người đều ghét chúng. Asa có thể bợ đỡ, phục tùng Manfred, nhưng Manfred biết rõ rằng Asa có thể cũng nguy hiểm không kém gì mình. Manfred có thể thôi miên, nhưng khi đêm xuống, Asa có thể trở thành con thú hoang dữ tợn, một sinh vật vượt xa sức mạnh của Manfred.
Vậy là hai thằng ngồi im bên bàn, môi mím chặt lại, đôi mắt gằm gằm, cho đến khi một cơn bão náo loạn thình lình nổ ra phía ra cửa lớn, phá vỡ sự im lặng khó chịu của hai đứa.
“Lại là con Olivia Vertigo,” Asa nói, nhìn về phía chỗ xảy ra hỗn loạn.
Manfred đứng vụt lên. “Không phải nó,” rồi hùng hổ bước ra cửa.
Olivia đã cố ý làm đổ toàn bộ khay đồ ăn ngay trước cửa. Hầu như toàn bộ dĩa và ly đều bể tan tành, cắm những mẩu thuỷ tinh nhọn lởm chởm vô bánh, vô nước sốt và vô trứng sữa.
“Xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi,” Olivia rối rít. “Em bị trượt chân.”
Xin lỗi không thôi mà đủ à.” Manfred quát. “Đi lau chùi ngay.”
“Vâng, thưa anh Manfred,” Olivia bước gấp gáp qua căn tin, vô nhà bếp. “Mình sẽ cho chúng năm phút” nó lẩm bẩm, và nhìn đồng hồ đeo tay.
Không ai để ý đến Olivia, cho đến khi bà bếp trường từ phía sau nhà bếp bước ra. Bà tới chỗ Olivia và la:
“Con vô sai cửa rồi, nhóc.”
“Con vô lấy một miếng bánh mì,” Olivia nói.
“Bộ con ăn không no sao?” Bà bếp trường hỏi.
“Con vô trễ,” Olivia đáp, liếc nhìn đồng hồ.
“Chậc! Chậc! Để xem ta làm được gì nào,” bà bếp trưởng vừa quay đi thì cánh cửa đằng sau Olivia bỗng mở tung.
“Nùi giẻ đâu? Đồ ngu! Chúng tao không thể ra được tới chừng nào mày lau dọn cái đống đó đi.”
“Em… ờ… ” Olivia ậm ừ.
“Kiên nhẫn nào, Manfred Bloor,” bà bếp trưởng gắt. “Tất cả mọi thứ đều đến với người biết chờ đợi.”
“Ha!” Manfred gầm gừ.
Bà bếp trưởng đủng đỉnh đi quanh nhà bếp, lấy một cây lau nhà và một cái xô, một đôi găng tay cao su từ dưới gầm bồn rửa chén.
Manfred thúc giục, “Lạy Chúa, nhanh nhanh lên, bà kia.”
Bà bếp trưởng sựng lại. Bà quẳng cây lau nhà xuống và quắc mắt nhìn Manfred, hai tay chống nạnh:
“Đừng có nói với ta kiểu đó. Mày dám nói thế à. Đừng bao giờ, đừng khi nào dùng cái giọng đó với ta nữa đấy.”
“Vâng! Vâng!” Manfred cuống quít, vẻ sợ sệt.
“Xin lỗi mau,” bà bếp trưởng ra lệnh.
“Xin lỗi bà,” Manfred lẩm bẩm, giả bộ như đang xem xét mấy cái móng tay của mình.
Olivia hầu như không thể tin nổi. Chỉ bằng vài lời mà bà bếp trưởng đã dìm thằng huynh trưởng xuống còn một thằng nhóc sợ sệt.
Bà bếp trưởng xách cái xô và nhặt cây lau nhà lên.
“Nếu mày muốn cái đống đó biến đi, thì mày tự đi mà dọn lấy.”
“Nhưng tôi không làm ra cái đống đó!” Manfred hét lên, đỏ mặt tía tai.
Bà bếp trưởng nhún vai rồi bỏ đi.
Manfred hằn học đẩy Olivia một cái ra cửa. Ngay khi chúng ra khỏi nhà bếp, hắn dúi cái xô vô tay con bé.
Vào đúng lúc đó, Charlie và Fidelio đang băng qua tiền sảnh. Vì giờ này tất cả đám trẻ khoa kịch đều đang ở cả trong căn tin, nên có rất ít người qua lại, và Charlie cố lẻn qua cánh cửa vô chái phía tây mà không để bị trông thấy. Fidelio đứng canh chừng. Chừng nào hoàn tất sứ mạng của mình, Charlie sẽ gõ hai tiếng lên cửa, và nếu tình hình yên ổn thì Fidelio sẽ gõ lại báo hiệu.
Charlie phóng lẹ lên cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên đỉnh tháp. Khi vố đến phòng nhạc, nó hết cả hơi và bị một vết toạc ở bên hông.
Nhưng Henry đã đi rồi. Một chiếc áo chùng xanh da thùng thình nằm vắt trên thành ghế. Và trên mặt ghế có một cái hộp thiếc trống không. Vài cuốn sách dính đầy vụn bánh, và hai miếng giấy gói kẹo rớt ngay gần cửa sổ.
Hôm nay thầy Pilgrim chơi đàn rất khẽ. Thầy cứ đánh đi đánh lại mãi một điệu nhạc, tựa hồ như thầy không thể nhớ ra đoạn tiếp theo của bản nhạc phải như thế nào.
Không gõ cửa, Charlie mở cửa ra và nhìn vô. Chỉ cố một mình thầy Pilgrim, không mặc áo chùng. Charlie chợt nhớ ra thầy cũng đã có lần không mặc áo chùng ở trong hội trường, nhưng thầy Pilgrim vốn hay quên mà.
Ông thầy giáo dạy nhạc nhìn qua chiếc đàn dương cầm và nhíu mày với Charlie.
“Xin lỗi thầy,” Charlie nói. “Thầy có trông thấy một cậu bé không ạ? Một cậu bé giống con?”
Thật vô cùng ngạc nhiên, thầy Pilgrim trả lời rành rọt.
“Có. Có một cậu bé.”
“Thế thầy có biết bây giờ anh ấy đang ở đâu không ạ?”
“Đúng ra cậu ấy không nên ở đây một mình,” thầy Pilgrim nói. “Nhất là vào ban đêm. Trời quá lạnh đi!”
“Vâng, nhưng… anh ấy đi đâu rồi ạ?”
“Cậu ấy đói bụng.”
Rồi như chợt nhớ ra phần nhạc nãy giờ vẫn đang lần mò, thầy Pilgrim bỗng chơi đàn thật ầm ĩ, rồi tiếp sau đó cuốn mình vào một đoạn nhạc hết sức phức tạp.
Charlie nhận thấy thật vô ích nếu hỏi ông thầy này thêm câu nào nữa. Ngoài ra,� nếu nó không trở lại ngay thì Manfred và Asa sẽ truy lùng nó khắp tiền sảnh.
“Cảm ơn thầy.”
Charlie rời căn phòng và đóng cửa lại, chạy một mạch hết các cầu thang xuống tới đáy tháp. Nó lao qua những cầu thang xoắn nhanh đến nỗi, khi xuống tới tầng trệt, nó lảo đảo cả người.
Trước khi bước vô hành lang tối dẫn ra tiền sảnh, nó dừng lại để nghe ngóng. Không nghe thấy gì. Vậy là an toàn khi vô hành lang. Nhón gót, nó đi rón rén trên nền đá. Được vài mét, bỗng nó va thẳng vô một cái gì đó; một hình hài nhỏ không ra hình người. Cái hình hài đó rên rỉ rồi chạy đi; nhưng khi Charlie quay lại nhìn, các người hay vật này cũng quay lại nhìn nó. Đôi mắt hấp háy đằng sau một tấm mạng đen mỏng, cái hình hài đó thì thầm:
“Cậu bé,” rồi biến đi khỏi.