Câu Hỏi Tình Yêu

Chương 3



Trong các chương trình đố vui trên truyền hình, có vài cách thức đặt câu hỏi. Ví dụ, trong Mastermind, John Humphreys sẽ nói; “Trong nhạc cổ điển, ‘legato’ có nghĩa gì?” thay vì đơn giản là, “‘Legato’ có nghĩa là gì?” Hoặc anh ta sẽ nói “Lịch sử; và Hội nghị Worms diễn ra khi nào?” thay vì, chỉ là “Hội nghị Worms diễn ra khi nào?” Điều này cho những ứng cử viên một giây nghỉ để chuyển sang chủ đề tiếp theo và chuẩn bị. Nhưng trong Whadda Ya Know?!! họ không có được điều xa xỉ đó – họ chỉ nhận được những câu hỏi – bum, bum, bum. “Hecate là nữ thần Ai Cập trông giữ nơi nào?” (Địa Ngục); “Tên khác của wildebeest là gì?” (Linh dương đầu bò); “Vĩ tuyến nào là đường biên giới giữa Nam và Bắc Triều Tiên? (Vĩ tuyến số 38)”; “Dòng sông nào chảy qua Quận Peak?” (Sông Dove). Chúng tôi làm như thế vì nó khó hơn, và nó làm tăng thêm sự căng thẳng và nhịp độ của chương trình. Khi tôi đi đến Ladbroke Grove để gặp Luke vào tối thứ sáu, một cuộc thẩm định với tốc độ nhanh tương tự hình thành trong đầu tôi. “Anh có lừa dối em hơn một lần trong suốt hai năm chúng ta sống cùng nhau không? Anh đã có bao nhiêu bạn gái sau đó? Vợ anh đẹp không? Thông minh không? Thành công không? Tại sao hai người chia tay?”

“Đừng tỏ ra nghiêm trọng như vậy, Laura!” Anh ấy kia rồi, đang đứng ở góc Đường Kensington Park, bên ngoài E&O. Anh hôn lên má tôi, sau đó giữ mặt gần mặt tôi trong một giây lát, và, lần nữa, tôi cảm thấy niềm khao khát quen thuộc cũ khuấy động. Tôi đã từng yêu anh quá nhiều. Và khi chúng tôi bước vào nhà hàng, tôi cảm thấy sức ép nhẹ của bàn tay anh trên lưng tôi. Nó khiến tôi hân hoan.

“Lúc đầu em đã nghe nhầm,” tôi nói khi chúng tôi được đưa đến một chiếc bàn yên tĩnh ở trong góc. “Em nghĩ em đang được mời đến ENO để xem opera.”

“Lần tới chúng ta sẽ đến đó.” Tôi cảm thấy mặt mình nóng lên vì vui sướng trước lời đề cập đến lần sau. “Được không?”

Tôi nén một nụ cười. “Có lẽ.” Tôi liếc nhìn không gian một màu xung quanh, với sàn nhà màu vàng và tường gỗ sơn màu tối. “Nơi này thật tuyệt.”

“Em từng đến đấy với chồng em chưa?” Anh nói với giọng kính trọng và lặng lẽ mà mọi người vẫn thường sử dụng khi họ nhắc đến Nick.

“Không. Chúng em không ra ngoài ăn nhiều. Tiền nong eo hẹp.”

“Anh ấy làm cho một tổ chức từ thiện phải không?”

“Anh ấy là giám đốc của SudanEase – một tổ chức nhỏ vì sự phát triển.”

“Đó là một công việc khó khăn. Anh ấy phải là một người tốt.”

“Vâng.” Tôi luôn ghét phải nói về Nick ở thì quá khứ; nó làm tôi tức giận. “Theo rất nhiều khía cạnh, anh ấy là một người rất tốt.”

“Anh định viết thư cho em,” Luke nói khi anh mở khăn ăn ra. “Anh thậm chí đã bắt đầu một bức thư – nhưng như thế thật… kỳ cục. Anh chỉ không biết phải nói gì.”

“Đừng bận tâm,” tôi nói với một nụ cười dễ cáu. “Rất nhiều người có cùng vấn đề như thế.”

Vẻ mặt của Luke cho thấy rằng mặc dù anh hiếu kỳ về Nick, nhưng anh cảm thấy như thể anh đang thọc mạch – vì thế thay vào đó anh hỏi về gia đình tôi. Khi chúng tôi uống champagne, tôi kể với anh chuyện bố mẹ tôi đã nghỉ hưu ở Pennines để điều hành một khách sạn theo hiểu B&B[1], về thành công của Hope ở Luân Đôn, về việc nó không muốn có con như thế nào nhưng lại hạnh phúc với điều đấy, cũng như chồng của nó, Mike. Sau đó tôi nói với anh về Fliss.

[1] Bed and Breakfast (giường và bữa sáng): một mô hình khách sạn nhỏ và rẻ tiền phổ biến ở Anh, xứ Wales, Bắc Ireland và Scotland.

“Anh đã thấy chị ấy,” anh nói. “Đẩy một chiếc xe nôi quanh Westbourne Grove.”

“Họ sống gần đấy.”

“Anh cũng thế – ở Đường Lonsdale. Quẩn quanh như một cái bát nuôi cá vàng, anh ngạc nhiên là anh không gặp chị ấy trước đây. Anh đã muốn nói chuyện với chị ấy – thực ra anh mong đến chết đi được hỏi chị ấy về em.”

“Tại sao anh lại không làm thế?”

Anh nhún vai. “Anh cảm thấy… kỳ quặc. Anh cho rằng anh là người không được chấp nhận với các thành viên trong gia đình em.”

“Nhưng đó là rất lâu trước đây rồi.”

“Anh biết – nhưng, mặc dù vậy, họ chắc chắn rất thất vọng về anh.”

“Ồ, không đâu…” Tôi nói dối.

“Thật sao?”

“À, ok… Phải. Họ đã thất vọng. Nhưng chủ yếu là vì em phải trở thành phù dâu của Felicity một tuần sau…”

“Anh còn nhớ.”

“Và em hoàn toàn trong tình trạng đau khổ.”

“Ôi trời.”

“Em khóc suốt buổi lễ.” Tôi dừng lại khi người bồi bàn đặt món khai vị xuống bàn. “Mẹ em đã phải nói với mọi người rằng đó là do cảm xúc của buổi lễ.”

“Anh hiểu.”

“Và khi Fliss tung bó hoa cưới vào em, em ném trả lại.”

“Trời đất.”

“Em đang trong tâm trạng tồi tệ.”

“Dường như thế. Nhìn này…” Anh ấy vạch áo khoác. “Thấy cái này không?” Anh chỉ vào chiếc áo sơ mi. “Vải lông ngựa thuần chủng.”

Tôi đảo mắt, sau đó mỉm cười. “Hoàn toàn vớ vẩn, ý anh là thế à!”

“Anh đã mang theo một chiếc roi nhỏ để tự phạt mình – hoặc em có thể thực hiện vinh dự đó nếu em muốn. Nhưng nói nghiêm túc, Laura à…” anh thấp giọng, “… chúng ta có thể gạt bỏ hết những chuyện này ngay bây giờ không – để chúng ta có thể có một buổi tối vui vẻ? Anh có thể nói anh thực sự hối tiếc vì việc anh đã làm, được không? Anh biết chuyện đã xảy ra rất lâu rồi, và anh đã là một gã trai trẻ ngốc ngếch. Nhưng chỉ trong trường hợp em vẫn có thể chịu đựng anh với một chút miễn cưỡng – điều mà anh thấy là có – anh muốn xin lỗi từ tận trái tim mình. Anh đã là một thằng khốn đối với em vào tháng Sáu năm 1993. Em không đáng phải chịu như thế. Anh xin lỗi. Giờ – như thế được chứ?” Những gì lạnh lẽo tôi còn cảm thấy bốc hơi trong một làn hơi nước, cứ như tôi đã bị đun khô.

Tôi mỉm cười. “Vâng, cám ơn. Được rồi. Ổn mà.” Tôi tách hai chiếc đũa ra.

“Nhưng mà này, anh đã trả một cái giá rất cao. Em thu dọn đồ và bỏ đi. Em phớt lờ những cuộc điện thoại của anh. Em trả lại anh tất cả những lá thư. Quyết tâm dứt bỏ anh ra khỏi cuộc đời em thật… ấn tượng.”

“Em không thể đối mặt. Thấy anh – với cô ta. Như thế.” Trong đầu tôi nhá lên hình ảnh không thể chịu đựng được của Luke, nằm trong bồn tắm của ngôi nhà chúng tôi cùng chia sẻ, bong bóng xà phòng ngập đến ngực, với Jennifer Clarke đang đứng, trần truồng, ở chậu rửa mặt. Tôi không bao giờ quên được nỗi kinh hãi tê cứng trên mặt Jennifer khi cô ấy nhìn vào gương và thấy tôi…

Tôi đã đi về nhà từ ngày hôm trước để thử váy cưới lần cuối cùng. Theo kế hoạch tôi sẽ không trở lại cho đến chiều muộn. Nhưng tôi trở về sớm bởi vì Luke và tôi đã cãi nhau trước khi tôi đi. Và tôi muốn giảng hòa với anh, làm anh ngạc nhiên. Nhưng người ngạc nhiên nhất là lại tôi. Công bằng mà nói, Jennifer trông dễ nhìn – với mái tóc dài, mượt mà tôi luôn thèm muốn – là đồng đội trong cuộc thi đố vui Universaly Challenged giữa các trường đại học mà chúng tôi đã chật vật thắng tuần trước.

“Anh thực sự xin lỗi,” Luke nhắc lại. “Đó đúng là lần đầu tiên và duy nhất anh làm điều đấy. Đó là một sai lầm tồi tệ – anh chỉ ước sao anh đã không làm thế với em.”

“Giờ chúng ta đã nói về chủ đề này. Tại sao anh lại làm thế, anh đã nghĩ gì?”

Anh nhíu mắt lại khi cân nhắc câu hỏi.

“Anh cho rằng bởi vì anh còn trẻ, và rất trẻ con, bởi vì chúng ta vừa hoàn thành kỳ thi cuối cùng và đó là một sự giải phóng, bởi vì anh đang sợ hãi về việc tốt nghiệp và phải tìm đường đi cho mình trong thế giới rộng lớn này. Chúng ta đã tranh cãi rất nhiều, nếu em còn nhớ, và rồi hôm đó em không có ở nhà mà Jennifer lại rất… nhiệt tình. Cộng thêm rằng anh đã trung thành với em hai năm liền và có lẽ anh muốn phá rào. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng anh không yêu em – anh thực sự yêu em.”

“Được rồi, Luke.” Tôi đã học rất thuộc rằng ngay cả những người yêu chúng ta, vẫn có thể làm tổn thương chúng ta. “Nhưng em không nghĩ Jennifer Clarke là một lựa chọn tuyệt lắm.”

Luke nhăn nhó. “Em nói đúng. Cô ấy chẳng thông minh chút nào. Anh không muốn tỏ ra khiếm nhã…” anh nghiêng về phía trước vờ ra vẻ hớ hênh – “nhưng cô ấy thậm chí không biết thủ đô của Cuba là Havana.”

“Hay là La Dolce Vita do Fellini làm đạo diễn. Nhớ không?”

“Hoặc Hermitage ở St.Petersburg. Cô ấy nghĩ nó ở Paris!”

“Khủng khiếp. Em không biết làm thế nào mà cô ấy lọt được vào đội. Chắc là do anh thích cô ấy.”

Anh cắn môi dưới. “Có lẽ – kiến thức chung của cô ấy đúng là tệ thật. Nhờ cô ấy mà chúng ta suýt thua. Em còn nhớ chúng ta đã suýt thua cuộc như thế nào không?”

“Nhớ chứ. Ý em là, cô ấy thậm chí không biết rằng cơ quan lớn nhất của cơ thể là gan.”

“Hay tiểu thuyết bán chạy nhất mọi thời đại là Thung lũng Búp bê.”

“Thật sao? Hơn cả Mật mã Da Vinci à?”

“Ừ, nó bán được ba mươi triệu bản.”

“Thật à? Cám ơn – chúng em sẽ sử dụng câu đó trong Whadda Ya Know?!!!”

Anh với lấy tay tôi. “Em tha thứ cho anh nhé, Laura?”

“Vâng.” Tôi mỉm cười. “Tất nhiên em tha thứ cho anh – bây giờ – nhưng em đã không thể tha thứ cho anh lúc đấy. Anh làm em tổn thương rất nặng, Luke à – giống như một cơn đau thể xác. Ở đây -ngay đây…” tôi vỗ vào xương ức của mình – “như thể ai đó đã cắn một nhát vào trái tim em. Em đang hạnh phúc với anh, Luke. Hạnh phúc hơn bao giờ hết. Có lẽ em sẽ không bao giờ gặp anh nữa, vì thế em không ngại để anh biết điều ấy.” Tôi cảm thấy nhói lên cảm giác tội lỗi với Nick, nhưng tôi gạt bỏ nó. Điều anh ấy làm với tôi còn tồi tệ hơn nhiều.

“Chúng ta đã hạnh phúc,” Luke nói. “Chúng ta còn rất trẻ, nhưng nó thực sự có ý nghĩa.”

“Đúng thế.” Tôi nhớ Luke đã khiến tôi cảm thấy đầy sinh lực như thế nào. Tính sôi nổi và sức sống của anh kích thích tôi, khi trước đấy tôi thật lặng lẽ và đâm đầu vào sách vở. Anh làm tôi thấy tự tin, trong khi tôi thường thu mình lại. Anh khiến tôi thấy mình xinh đẹp, trong khi tôi thường nghĩ mình thật bình thường. Tôi có một niềm đam mê đối với anh mà tôi không bao giờ cảm nhận được với người đàn ông khác. Anh là… đúng vậy… tình yêu của cuộc đời tôi. Nếu lúc đó tôi biết thế, có lẽ tôi đã tha thứ cho anh khi anh cầu xin. Thay vào đó, tôi rời bỏ anh, không có một lời hay một lần nhìn lại và đã đi sang một con đường khác.

Bây giờ bầu không khí giữa chúng tôi thật trong lành như bầu không khí trên dãy An-pơ.

“Vậy,” tôi nói. “Chuyện gì xảy ra với anh sau đó? Anh làm cho Christies à?”

“Ừ. Anh làm ở đấy tám năm. Anh bắt đầu là một người gác cổng, và kết thúc là trưởng phòng Anh quốc đương đại. Về chuyện cá nhân, anh có một hay hai cuộc tình không được vừa ý. Sau đó, vào mùa hè năm 96, anh gặp Magda.”

“Đó có phải tình yêu từ cái nhìn đầu tiên không?”

Anh suy xét câu hỏi. “Không. Nhưng anh bị cô ấy… lôi cuốn.” Tôi thấy nhói đau vì ghen tuông. “Anh thấy cô ấy thú vị, và khá sâu sắc. Cô ấy là người Hungari – mặc dù cô ấy đã sống ở đây mười hai năm cho đến lúc đó – cô ấy luôn có vẻ nghệ sỹ và quyến rũ. Cô ấy mặc quần áo lỗi mốt, đôi mắt xanh to, và mái tóc dài màu vàng mà cô ấy thường bới lên đỉnh đầu.”

“Hai người gặp nhau như thế nào?”

“Ở… lớp vẽ khỏa thân.”

“Vậy cô ấy cũng là họa sỹ.”

Anh uống rượu. “Bọn anh gặp nhau vài tháng và anh bắt đầu cảm thấy áp lực bởi vì cô ấy hơn anh năm tuổi và muốn ổn định cuộc sống. Nhưng anh bắt đầu nghĩ chuyện đó không ổn lắm.”

“Tại sao?”

“À, mặc dù cô ấy có thể trở nên vui nhộn, nhưng nhiều khi tâm trạng cô ấy rất u ám. Vì thế anh phải gồng mình lên khi nghe cô ấy nói đã mang thai.” Anh nhún vai. “Anh lo lắng bởi vì bọn anh mới chỉ gặp nhau được bốn tháng và chưa hề bàn đến việc sống cùng nhau, đừng nói là có con. Nhưng anh cũng hào hứng với ý nghĩ trở thành bố – vì thế anh cảm thấy nên làm điều đúng đắn.”

“Kể với em về Jessica đi.”

Anh mỉm cười, sau đó lắc đầu, như thể vẫn còn kinh ngạc. “Jessica? Anh có thể nói gì? Anh… hết sức yêu con bé. Con bé là lý do anh mặc quần áo vào buổi sáng. Con bé là lý do anh đi làm. Con bé là điều vui sướng nhất trong cuộc đời anh – con bé là tất cả đối với anh, Laura, thực sự là thế – con bé là điều tốt nhất, con bé thực sự là… con bé là… điều tốt nhất, tốt nhất…” Tôi sửng sốt khi nhìn thấy miệng anh run run, mắt anh mờ đi với những giọt nước mắt bất ngờ.

“Luke,” tôi thì thầm. Tôi đặt tay lên tay anh. Anh xấu hổ quay đi, sau đó cúi đầu xuống.

“Xin lỗi,” anh thì thào. “Anh buồn vì Jessica không sống với anh nữa và anh nhớ nó. Anh nhớ sự hiện diện nhỏ bé đáng yêu của nó. Anh nhớ những lúc được nghe nó nói, hát và chơi đùa. Anh không thể chịu đựng việc nhìn vào căn phòng trống của nó. Thỉnh thoảng anh ngồi trên giường nó và khóc.”

“Nhưng anh vẫn gặp cô bé chứ?”

Anh gật đầu. “Thứ Bảy hàng tuần. Và anh thường đón con bé từ trường.”

“Vậy cũng không tệ lắm mà.”

Anh nhún vai. “Có thể tệ hơn nữa – nhưng anh muốn sống với con của mình. Magda và anh không hạnh phúc, nhưng anh không bao giờ bỏ cô ấy, chỉ vì Jessica.”

“Vậy tại sao hai người chia tay?”

Anh thở ra một hơi thở dài yết ớt. “Bởi vì ngay từ đầu cô ấy đã là một người lập dị. Cô ấy bắt đầu cư xử theo những cách cực kỳ quái lạ…”

“Làm gì?”

“Gây chiến suốt ngày. Giấu đồ của anh, hay thậm chí phá hoại chúng. Có lần anh lấy xe đi khi cô ấy cần nó, và anh vừa mở máy, cô ấy liền quăng một cặp bình pha lê thuộc về bà anh ra khỏi cửa sổ.” Anh nhún vai. “Anh vẫn có thể nhớ tiếng chúng đập xuống đường. Cô ấy vứt cả chiếc nhẫn đính hôn vào nhà vệ sinh. Cô ấy thô lỗ một cách thái quá với những người bạn của anh.” Anh nhăn nhó. “Cô ấy ra về giữa chừng trong những bữa tiệc tối nếu ai đó nói điều gì cô ấy không thích.”

“Thật xấu hổ.”

“Thì thế. Thậm chí cô ấy làm như thế ở nhà sếp anh một lần – anh lo rằng nó có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp của mình. Cô ấy gây ra những… tình huống kinh khủng. Anh đưa cô ấy đến Dorchester mừng sinh nhật và cô ấy bảo anh gọi món trong khi cô ấy đi vào nhà vệ sinh. Anh gọi món gà mà anh biết cô ấy thích. Nhưng khi nhìn thấy nó, cô ấy bắt đầu khóc, trên thực tế là khóc rất to – mọi người đều nhìn chằm chằm. Vậy nên anh thì thầm. ‘Chuyện gì thế, Magda?’ và cô ấy hét lên, ‘Nhưng em muốn ăn vịt!!!’”

“Ái chà. Ừm… theo anh vì sao cô ấy làm những việc như thế?”

“Cô ấy thích kịch tính – và tất nhiên, sự chú ý. Và cô ấy dường như thấy một cuộc sống hôn nhân bình thường nhàm chán, vì thế cô ấy bày ra những chuyện cãi cọ này, để bọn anh có những lần giảng hòa tuyệt vời. Nhưng anh chỉ thấy nó thật mệt mỏi thôi.”

“Thế anh không muốn có thêm con nữa à?”

“Anh muốn; nhưng cô ấy thì không – có lẽ bởi vì cô ấy cũng là con một – nhưng vì bất kỳ lý do nào chuyện này cũng có vẻ không tốt. Anh cảm thấy cô ấy đang cố gắng khơi mào một vụ chia tay, điều mà anh không muốn, vì Jess, vì thế anh hết sức giữ bình tĩnh. Nhưng sau đó – và đây là lý do thực sự khiến bọn anh chia tay – cô ấy bắt đầu nuôi dê.”

“Dê?” Anh ấy gật đầu. À.

“Những con dê lùn. Hình như, bà cô ấy đã nuôi chúng ở Carpathians và chúng mang lại những ký ức vui vẻ. Đại khái là, một ngày anh về nhà, và thấy một con dê bé đang nhai rào rạo cây thược dược của anh ở trong vườn. ‘Gặp Heidi đi,’ Magda nói với vẻ hài lòng. Anh nghĩ thầm, được rồi, anh có thể chịu đựng một con dê nhỏ – và anh nghĩ nó có lẽ có tác dụng xoa dịu với Magda. Nhưng sau đó, không hề nói với anh, cô ấy cho Heidi thụ thai, và nó sinh đôi – Sweetie và Ophelia. Tiếp đó, vài tháng sau, Heidi có thêm hai con nữa – Phoebe và Yogi. Và khi anh nói thật vô lý khi nuôi quá nhiều dê như thế, cô ấy cười và nói anh muốn nhiều con, và giờ anh đã có rồi đấy. Vậy là bọn anh sống ở Notting Hill sang trọng với bầy vật nuôi ở vườn sau. Mọi người đều cười nhạo.”

“Đấy là tại sao anh cười khi em hỏi ‘dê’ nghĩa là gì.”

Anh gật đầu. “Không có nhiều thứ mà anh không biết về chúng. Thực ra chúng cũng đáng yêu. Anh khá là thích chúng.”

“Chúng có mùi không?”

“Con cái và con đực đã thiến thì không. Nhưng tất nhiên là chúng chạy ra ngoài, và anh phải đi tìm chúng về; hoặc chúng lang thang trong nhà, và anh thấy chúng trên nóc tủ. Chúng phải có loại cỏ khô linh lăng đặc biệt và muối khoáng, và tất nhiên, công việc của anh là đi mua về. Và rồi, vào cuối tuần Magda bay đến triển lãm nông nghiệp với chúng – cô ấy đã xem được một đoạn quảng cáo ngắn. Và anh tìm thấy một tờ nhắn trên bàn ăn nói rằng cô ấy sẽ đi hết cuối tuần đến vài cuộc hội hè đồng quê hay nơi nào đó và anh có thể trông nom Jess không. Bọn anh đã cãi nhau nảy lửa về chuyện đó. Và điều tiếp theo anh biết là cô ấy thu dọn đồ đạc.

Anh cố gắng ngăn cô ấy lại, bởi vì Jess – anh quẫn trí. Anh cân nhắc đến việc xin một lệnh cư trú[2], dựa trên những hành vi kỳ quặc của Magda, nhưng một cuộc chiến pháp lý sẽ quá nhiều tác hại – chưa nói đến tốn kém – thêm vào đó anh lo lắng nó sẽ làm Jess sợ hãi.”

[2] Lệnh của tòa án quyết định đứa con sẽ sống với ai khi bố mẹ chia tay.

“Vậy anh đã bắt đầu tiến hành chưa?”

“Chưa – không có lý do đặc biệt nào để làm – và điều đó sẽ làm Jessica suy sụp. Điều khủng khiếp nhất là con bé nghĩ đây là lỗi của nó. Nó có ý nghĩ rằng nếu nó ‘ngoan hơn’, thì mẹ nó và anh sẽ không bao giờ chia tay.”

“Tội nghiệp cô bé.”

“Anh biết. Anh nói mãi với nó là điều đấy không đúng – rằng nó là một cô gái nhỏ ngoan ngoãn, và những điều như thế này xảy ra suốt.” Anh lắc đầu. “Nhưng con bé không thể hiểu được. Thỉnh thoảng, khi con bé ở với anh, và đến lúc lên giường nói lời cầu nguyện. Và nó luôn luôn kết thúc với việc cầu nguyện rằng mẹ và bố nó sẽ lại sống cùng với nhau.” Anh quay đi. “Nó làm trái tim anh tan vỡ.”

“Thế… cô bé và vợ cũ của anh bây giờ đang sống ở đâu?”

“Ở Chiswick, trong căn nhà của Magda trước khi cô ấy lấy anh – nó đã được cho thuê. Khu vườn ở đó lớn hơn vườn nhà anh nên lũ dê thoải mái hơn, và nó cũng không xa quá. Anh thanh toán tiền thế chấp, tất cả những hóa đơn và học phí của Jessica…”

“Magda có làm việc không?”

“Không. Cô ấy từng là một phiên dịch – cô ấy được trả lương hậu hĩnh – nhưng cô ấy không làm nữa.”

“Điều đó thật khó khăn cho anh.”

“Anh biết. Thật may là phòng triển lãm phát triển tốt. Anh bám trụ được ở Đường Lonsdale là nhờ vào việc vay mượn thêm nhưng tiền nong đã trở nên eo hẹp. Anh thực sự phải chật vật xoay sở.”

Tôi chấm một con tôm bao bột vào nước tương. “Đó là lý do anh tham gia chương trình?”

“Một phần – bởi vì, như anh đã nói với em, anh đăng ký được một chỗ học ở trường Slade. Nhưng anh cũng làm thế vì… à, anh muốn gặp em, Laura. Anh chưa từng quên em.” Anh vuốt ve lưng bàn tay tôi. “Anh thường nghĩ về em – đặc biệt kể từ khi nghe thấy chuyện xảy ra – và anh muốn tin rằng em cũng nghĩ về anh.”

“Em không cho phép mình,” tôi lặng lẽ nói. “Em đã đẩy anh đi. Nhưng anh vẫn trở lại với em trong những giấc mơ.”

Anh mỉm cười. “Anh biết em sẽ ăn tối với anh.”

“Thật sao? Làm thế nào mà anh lại chắc chắn như thế?”

Anh hất đầu ra hiệu về phía bàn tay tôi đang ôm cằm. “Do anh nhìn thấy em đang đeo chiếc đồng hồ của anh.”

Tôi liếc nhìn cổ tay trái. Trên đấy là chiếc đồng hồ vàng mỏng Luke đã tặng tôi nhân dịp sinh nhật hai mươi mốt tuổi. Anh đã phải tiêu tốn tiền trợ cấp của cả học kỳ đó. “À,” tôi nhún vai. “Em… thích nó… và… nếu vứt nó đi thì đúng là… ngốc nghếch, đúng không nào?”

Di động của anh đột nhiên đổ chuông. Anh liếc nhìn màn hình, rồi nhăn mặt. “Xin lỗi, Laura. Anh sẽ trở lại ngay.” Anh đi ra ngoài, qua cánh cửa kính, tôi thấy anh đứng trên vỉa hè ẩm ướt, bên dưới ngọn đèn đường, sau đó chầm chậm đi đi lại lại. Một hoặc hai lần anh luồn tay trái vào mái tóc với vẻ căng thẳng và giận dữ. Sau đó tôi thấy anh tắt phụt điện thoại.

“Sắp xếp chăm sóc con cái đấy mà,” anh nói khi quay lại bàn, môi mím lại. “Magda đang cố đề nghị rằng tên bạn trai quái quỷ của cô ấy sẽ mang Jessica đến đây sáng mai. Cô ấy chỉ nói thế để làm tổn thương anh – con bò cái ngu ngốc. Anh nói với cô ấy rằng anh sẽ tự đón con gái mình!”

“Anh bạn trai đó như thế nào?”

“Anh ta tên là Steve – gần bốn mươi tuổi, một kế toán – đã ly dị với ba đứa con tầm tuổi thiếu niên. Anh ta cảm nhận thế nào về lũ dê thì anh không biết. Nhưng Magda không để mất cơ hội nào để kể với anh rằng anh ta là một người hoàn hảo như thế nào và sẽ là một ‘cha kế tuyệt vời’ ra sao,” anh cay đắng thêm vào.

“Thế anh đã hẹn hò với ai chưa?”

“Chưa. Anh quá bận rộn – anh sống như một thầy tu. Thêm vào đó, anh đã trải qua đủ đau đớn với cô ấy và anh không muốn mạo hiểm lần nữa với một người mới.” Anh nhìn tôi chăm chú. “Nhưng còn cuộc sống của em thì sao hả Laura? Hôn nhân của em?”

Trái tim tôi chùng xuống. Tôi ghét nói về Nick, nhưng tôi muốn Luke hiểu chính xác chuyện gì đã xảy ra.

“Bọn em gặp nhau như thế nào?” anh hỏi.

“Ở Đài phát thanh số 4.” Tôi uống một ngụm nước lớn. “Em sắp đặt một cuộc phỏng vấn với anh ấy về Sudan, và vì lịch sự em nói chuyện ngẫu với anh ấy trong khi anh ấy đợi chương trình bắt đầu, thật ngạc nhiên, anh ấy mời em đi chơi.”

“Đó là khi nào?”

“Đến giờ là mười một năm. Mùa xuân năm 1994.”

“Vậy là không lâu sau khi chúng ta chia tay.”

Tôi đẩy một miếng tempura quanh đĩa. “Đúng thế.”

“Và em yêu anh ấy?”

“Đấy là một câu hỏi rất riêng tư.”

“Anh xin lỗi. Nhưng anh muốn biết. Em có yêu anh ấy không?”

“Em nghĩ thế. Ý em là – có. Tất nhiên là em yêu anh ấy.” Tôi nhìn chằm chằm vào ánh nến lung linh trên giá đỡ bằng kính.

“Chuyện của em nghe giống như chuyện của Hoàng tử Charles và Diana.”

“Nghe này Luke, Nick là người chính trực và tử tế, và anh ấy đang làm những việc đáng quý. Thêm vào đấy anh ấy rất tốt với em, vì thế, phải, em cho rằng đó là… lý do. Ok, anh ấy không hài hước, giống như anh. Nhưng anh ấy rất thú vị, và anh ấy là một người tốt. Và em đã không nghĩ rằng anh ấy làm tổn thương em.” Tôi trao cho anh một cái nụ cười ảm đạm. “Điều đó đến bây giờ lại dường như lại là trớ trêu nhỉ.”

“Em không muốn có con sao?” Tôi nhúc nhích trên ghế. “Anh biết đây cũng là một câu hỏi rất riêng tư – nhưng anh cảm thấy không có gì ngăn cách với em, Laura, chỉ cần ngồi nói chuyện với em như thế này lần nữa.” Anh nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay trái tôi trong hai bàn tay anh và vuốt ve những đầu ngón tay. Việc đó gần như khiến tôi ngất xỉu vì khao khát. “Thế…?” Anh nhìn tôi đầy mong đợi. “Em không muốn có một gia đình? Anh vẫn luôn tưởng tượng em với những đứa trẻ.”

“Bọn em chưa bao giờ… cân nhắc đến chuyện đấy.” Tôi rút tay lại, sau đó với lấy khăn ăn. “Hai đứa em đều đang tập trung cho sự nghiệp. Và sau đó, ừ… anh nghe chuyện xảy ra rồi đấy. Chuyện là như thế,” tôi cay đắng thêm vào.

“Anh xin lỗi,” anh nói lần nữa. “Chính xác là khi nào?”

“Ngày 1 tháng Giêng năm 2002.”

“Vậy ra anh ta làm việc đấy vào Ngày Tết? Chỉ để tăng thêm sự đau khổ của em, anh cho là thế.”

“Lựa chọn thời điểm tuyệt vời – anh nói đúng. Và tất nhiên nó phá hoại tất cả những ngày Tết kể từ đó. Một dấu ấn vĩnh viễn.”

“Anh nghĩ rằng chuyện anh ta đã làm…” anh hạ thấp đũa xuống – “là điều tệ nhất mà ai đó có thể làm với người bạn đời của họ.” Tôi gật đầu. “Nỗi đau mà nó để lại. Và những câu hỏi nữa anh nghĩ thế. Những câu hỏi không được trả lời…”

“Vâng,” tôi chua chát nói.

“Nhưng bây giờ em đã vượt qua được?”

Tôi nghĩ về những đồ đạc của Nick, vùi trong những chiếc hộp.

“Em đã để những ký ức về anh ấy yên nghỉ.”

Một sự im lặng rơi xuống. Tôi liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. Mọi người đang gấp gáp đi lại với những chiếc ô. Cổ áo dựng ngược lên. Tôi có thể nghe thấy tiếng rít của những bánh xe ướt trên đường.

“Em có nghĩ là có khả năng anh ấy sẽ… quay trở lại không?”

Tôi hít thở chậm chạp. “Điều đấy… gần như không thể.”

“Nhưng thỉnh thoảng nó vẫn xảy ra.” Tôi nhìn anh. “Anh chắc là mình đã đọc điều đó ở đâu đấy.”

Tôi lắc đầu. “Chuyện như thế gần như chưa được biết đến. Đặc biệt sau một thời gian quá lâu. Nếu Nick định quay lại thì anh ấy đã quay lại lâu rồi – có thể là trong vòng ba tháng đầu tiên. Tất cả các chuyên gia đều nói thế. Họ nói một người mất tích càng lâu càng khó cho họ quay lại. Em cho rằng họ sợ sẽ gặp phải vấn đề nghiêm trọng, vì họ biết họ đã gây quá nhiều căng thẳng và đau đớn.”

“Thế anh ta chỉ… biến mất? Hoàn toàn bất ngờ?”

“Biến mất trong lòng đại dương, em thường nghĩ thế. Xe của anh ấy được tìm thấy gần bờ biển.”

“Vậy chuyện xảy ra như thế nào? Nếu em không ngại nói về nó?”

“Không sao. Thực ra em muốn kể với anh.” Tôi uống một ngụm nước khác. “Chúng em đã đi chơi ở Luân Đôn Eye[3]. Em nghĩ đấy là một chuyện hay hay để làm vào buổi sáng Năm mới. Chúng em đã có một vài… khó khăn… và em nói rằng nó sẽ mang đến cho chúng em vài triển vọng tích cực về mọi chuyện. Sau này, em nhớ ra rằng, khi em nói thế anh ấy nở một nụ cười buồn buồn và là lạ.”

[3] London Eye nằm trên bờ nam của sông Thames tại London, giữa cầu Westminster và cầu Hungerford, được biết đến với cái tên Vòng quay thiên niên kỷ (Millennium Wheel), là vòng đu quay cao nhất ở châu Âu và là điểm du lịch có thu phí đông khách nhất Anh Quốc với hơn 3 triệu lượt khách một năm. (ND)

“Và sau đó ngày hôm đấy anh ta biến mất?”

Tôi gật đầu. “Lúc đấy khoảng sáu giờ – em biết vì em đang nghe tin tức trên đài như thường ngày khi em đang làm gì đó trong bếp. Và em nghe anh ấy nói to rằng anh ấy ra ngoài mua sữa. Vì thế em nói, được. Nhưng nửa tiếng đồng hồ sau anh ấy vẫn chưa quay về. Lúc đó em có cảm giác rất tồi tệ, em mở tủ lạnh và thấy vẫn còn một chai sữa đầy. Vì thế em chạy đến siêu thị nhỏ của địa phương và hỏi nhân viên ở quầy thu ngân xem bà ấy có nhìn thấy Nick không, và bà ấy nói là không. Sau đó em tìm xe ô tô, và nó đã biến mất. Em gọi đến văn phòng anh ấy trong trường hợp anh ấy đi đến đó, nhưng không có người trả lời – và anh ấy không trả lời điện thoại di động. Em đợi hai giờ nữa, và cho đến lúc này em thực sự hoang mang. Nhưng khi đến mười giờ, em đã hoảng sợ. Vì thế em gọi cho điện cho bố mẹ, và họ bảo em báo cảnh sát. Nhưng cảnh sát nói em không thể báo anh ấy mất tích cho đến khi anh ấy đi khỏi được hai mươi tư giờ. Anh có thể tưởng tượng hai mươi giờ sau đó là như thế nào.”

“Đau đớn.”

Tôi gật đầu. “Fliss đến và ở lại đêm đấy. Mỗi lần điện thoại reo đều giống như một cơn sốc điện. Em cảm thấy như thể những chân sợi dây thần kinh của em bị gắn vào những sợi dây điện vặn vẹo. Nhưng em bám vào niềm tin rằng phải có vài lời giải thích có lý đến hoàn hảo và rằng đột nhiên em nghe thấy tiếng chìa khóa của anh ấy ở cánh cửa. Nhưng em không nghe thấy nó. Không phải trong đêm đấy, hay ngày hôm sau – hay bao giờ nữa.”

Luke lắc đầu. “Anh ta có mang gì theo không?”

“Chỉ có chiếc xe. Ba ngày sau khi anh ấy đi, họ tìm thấy nó bỏ trên bờ biển Norfolk, vừa ra khỏi Blakeney, nơi anh ấy thường đi nghỉ cùng gia đình khi còn bé. Trong xe là điện thoại, chìa khóa nhà và ví tiền – thẻ tín dụng còn nguyên. Sau đó, sáng hôm sau, họ tìm thấy ca vát của anh ấy. Nó dạt từ ngoài biển vào.” Tôi rùng mình với ký ức đó. “Sau đó một cuộc tìm kiếm ồ ạt trên biển được diễn ra, với máy bay trực thăng và tàu ngầm, nhưng họ không thể tìm được xác. Nhưng họ nói rằng nếu anh ấy tự tử – điều mà em không chịu tin vì em hiểu rõ anh ấy, để biết rằng anh ấy sẽ không bao giờ làm thế – thì anh ấy sẽ dạt vào bờ biển xa hơn, có thể là trong vòng ba tuần. Nhưng một tháng trôi qua và vẫn không có gì được tìm thấy.”

“Chờ đợi phải rất khủng khiếp,” Luke nói. Chỉ nghĩ đến nó thôi, bụng tôi cũng đã nháo nhào. “Với cả gia đình anh ấy nữa.”

“Anh ấy không có anh chị em, và bố mẹ anh ấy đều đã mất. Mẹ anh ấy đã mất nhiều năm trước, khi anh ấy còn là một sinh viên, và bố anh ấy mất ba tháng trước khi Nick biến mất. Đường Dây Quốc Gia Trợ Giúp Người Mất Tích đã giúp đỡ rất nhiều. Họ dán áp phích ở Norfolk và Luân Đôn. Họ cũng khuyên em nói chuyện với những người vô gia cư ở Khu đê biển, đề phòng Nick sống lang thang ở đó. Thế là em dành cả tháng để lê lết xung quanh, đi đến quán rượu và cà phê, đưa cho mọi người xem ảnh của anh ấy, hỏi xem họ có nhìn thấy anh ấy không. Em phải ghi nhớ trong đầu là, nếu anh ấy sống lang thang, thì diện mạo của anh ấy có thể thay đổi như thế nào. Anh ấy có lẽ không cạo râu, có thể đã có râu quai nón. Anh ấy phải gầy hơn – anh ấy đã là một người to lớn và cường tráng. Anh ấy có lẽ sẽ có dáng đi khác, ít tự tin hơn. Và em đi đến Quảng trường Leicester hàng ngày trong bốn tuần, chỉ ngồi đó trên một chiếc ghế cả buổi chiều, nhìn mọi người qua lại, trong khi nghĩ rằng có thể bất ngờ nhìn thấy anh ấy. Và em nhớ có lần, em đã chạy theo một người đàn ông em tưởng là Nick – em thậm chí đã gào tên anh ấy, nhưng anh ta không nghe thấy, vì thế em túm cánh tay anh ta từ phía đằng sau. Và anh ta quay lại, với vẻ rất kinh ngạc… Anh ta rõ ràng nghĩ em bị điên.” Tôi siết chặt chiếc khăn ăn. “Em nghĩ em thật sự bị điên trong một một thời gian.”

“Thế còn công việc của em?”

“Em phải đi làm lại. Điều đó thật khó, nhưng em cần tiền – và sự sao nhãng. Nhưng em muốn ở nhà đề phòng Nick gọi điện, hay thậm chí xuất hiện. Em sợ rằng nếu anh ấy trở về mà em không ở đó, anh ấy sẽ biến mất lần nữa. Vì thế giám đốc của em, Tom, để em làm việc ở nhà. Anh ấy thật tuyệt vời.” Tôi nhớ lại Tom đã giúp đỡ như thế nào, bất chấp thực tế rằng anh ấy cũng đang có vấn đề khủng khoảng hôn nhân của riêng mình. Anh ấy mang đến những cuốn sách mà tôi cần. Đưa cho tôi những băng đĩa vui nhộn, để làm tôi vui lên – tôi nhớ anh ấy đã tặng tôi một bộ hài kịch của Ealing và năm seriesFrasier. Anh ấy đảm bảo là tôi có đủ đồ ăn trong tủ lạnh.

“Vậy là em không bao giờ ra ngoài?”

Tôi lắc đầu. “Hiếm khi, và không lâu sau, em đăng ký một số điện thoại mới, để số điện thoại cũ luôn rỗi nếu Nick gọi. Khi em phải rời khỏi căn hộ, điều mà ít khi xảy ra, em để lại một lời nhắn cho Nick ở cửa. Em hoàn toàn không chạm đến đồ đạc của anh ấy. Ngôi nhà chung của bọn em giống như con tàu ma Marie Celeste.”

“Chuyện này diễn ra trong bao lâu?”

“Hai tháng. Đến lúc đó, tất nhiên, em đã suy nhược. Ngày qua ngày, em sống trong… sự trống rỗng. Em đã rơi vào tình trạng suy sụp đến mức em hầu như không thể ăn uống. Cũng như tắm rửa. Nhưng sau đó vào đầu tháng Ba em nhận được hai cuộc điện thoại không lời – một vào buổi chiều và một vào buổi sáng ngày hôm sau. Em có thể nghe tiếng thở yếu ớt ở đầu dây bên kia, và em biết rằng đó là anh ấy, vì thế em nói ‘Nick, làm ơn đừng dập máy! Làm ơn, làm ơn nói chuyện với em.’ Hai lần em đều nghe thấy một tiếng thở dài, hoặc có lẽ anh ấy đang cố thì thầm tên em. Nhưng sau đó đường dây im lặng như tờ – và đấy là tất cả sự liên lạc mà em nhận được. Cho đến khi…” Tôi dừng lại khi người bồi bàn đến dọn đĩa đi.

“Cho đến khi…?”

“Giữa tháng Tư. Chương trình Thế giới Tối nay làm một phóng sự về người mất tích, và họ phỏng vấn em.”

“Anh đã nghe chương trình đấy. Vì thế mà anh biết.”

“Và sáng hôm sau, phụ trách trường hợp của em ở Đường Dây Quốc Gia Trợ Giúp Người Mất Tích gọi điện cho em nói rằng có tin quan trọng – Nick đã liên lạc. Em quá vui mừng…” Tôi nghe thấy giọng mình nghẹn lại. “Em thấy… phấn chấn. Em cứ nói mãi rằng chuyện này thật tuyệt vời, và em cám ơn họ đã giúp đỡ, nhắc đi nhắc lại…” Cổ họng tôi nhói đau với một tiếng nghẹn ngào bị kìm lại. “Sau đó em hỏi họ bao giờ em có thể gặp anh ấy, nhưng họ không trả lời. Nên em hỏi lại lần nữa. Em nói, “Khi nào tôi có thể gặp anh ấy? Tôi muốn gặp anh ấy.” Và sau đó là một sự im lặng kỳ quái. Và họ nói với em rằng anh ấy gọi đến đường dây 24-giờ ‘Tin nhắn cho gia đình’ và nói rằng anh ấy an toàn và khỏe mạnh…” mắt tôi mờ đi, những giọt nước mắt châm trích hàng mi dưới – “nhưng anh ấy không muốn có liên lạc gì nữa.”

“Không liên lạc nữa?”

Tôi lấy tay che mặt. “Sự nhẹ nhõm… nhẹ nhõm khi biết rằng anh ấy vẫn khỏe – nhưng cùng lúc nhận thức rằng anh ấy không muốn nhìn thấy em. Sự tàn nhẫn của nó – sau tất cả những gì em đã trải qua.” Tôi cảm thấy một giọt nước mắt nóng trượt xuống má tôi. “Xin lỗi,” tôi lẩm bẩm, “nhưng em không bao giờ có thể nói về nó mà không khóc?”

“Ai có thể đổ lỗi cho em chứ?” Luke lẩm bẩm. Anh dè dặt chuyển cho tôi cái khăn tay của anh. “Nhưng ít nhất anh ta không chết, tạ ơn Chúa.”

Tôi nuốt nghẹn. “Phải. Đó là điều em nói với mình. “Ít nhất anh ấy không chết.” Mặc dù, theo một khía cạnh, anh ấy đã chết. Và chuyện sẽ là như thế kể từ đó. Em ở trong nhà ngục kỳ quái này với cảm giác như một góa phụ – em thậm chí nhận được những lá thư cảm thông – nhưng chồng em vẫn sống. Và chuyện bắt đầu lại với người khác là không thể. Bởi vì, về mặt luật pháp, cuộc hôn nhân của em chưa chấm dứt – mặc dù, tất nhiên, nó kết thúc rồi. Thậm chí nếu anh ấy có quay trở lại, điều mà anh ấy sẽ không làm sau quá lâu như vậy, chúng em không bao giờ có thể trở lại thành một cặp vợ chồng ‘bình thường’ được nữa. Anh có thể hình dung ra nỗi phẫn uất của em không? Thêm vào đấy em không bao giờ tin rằng anh ấy sẽ không làm như vậy lần nữa.” Tôi lại nghĩ chuyện này mỉa mai như thế nào khi Nick, người đã dường như là quá ‘an toàn’ sau nỗi đau khổ của tôi với Luke, lại làm một việc quá khủng khiếp như thế.

“Tại sao em không xin ly dị?”

“Bởi vì anh chỉ có thể ly dị mà không có sự đồng thuận sau năm năm. Và em không thể đối diện với ý nghĩ hẹn hò và phải giải thích rằng em vẫn còn kết hôn, nhưng vì chồng em là một người mất tích – anh ấy đang ngoài kia, đâu đó, nhưng em không biết ở đâu, bởi vì anh ấy không muốn em biết. Em cảm thấy bị bôi xấu bởi việc Nick đã làm – cứ như là em là một người khủng khiếp mà anh ấy không thể chịu được việc nhìn thấy em, hoặc thậm chí nói chuyện với em, hoặc chia tay với em một cách thành thật và cởi mở. Chuyện này phá hủy hoàn toàn tinh thần của em.”

Luke với lấy tay tôi lần nữa, nhưng lần này tôi không rút ra.

“Em rất đáng yêu, Laura. Đấy là lỗi của anh ta. Anh ta rõ ràng có vấn đề nghiêm trọng về tinh thần và cảm xúc, và nó chẳng có gì liên quan với em cả.”

Tôi có thể cảm thấy mặt tôi râm ran vì sức ép nhẹ của những ngón tay Luke trên da tôi. “Có lẽ… Đúng thế… em nghĩ thế. Em không… biết.”

“Anh ta có liên lạc lại nữa không?”

“Không liên lạc với em. Cứ vài tháng, anh ấy gửi đến Đường Dây Trợ Giúp Người Mất tích một email, chỉ nói rằng anh ấy khỏe, nhưng không nói anh ấy ở đâu. Lá thứ mới nhất đến trước Giáng sinh.”

“Họ không thể lần ra dấu vết à?”

Tôi lắc đầu. “Không thể vì mỗi lần anh ấy đều sử dụng địa chỉ email khác nhau. Anh ấy chỉ tự mình ‘biến mất’ – nhưng điều trớ trêu là, đó là quyền của anh ấy. Mất tích không phải là tội lỗi của con người, và hàng năm có nhiều nghìn người làm như thế. Họ chỉ bước ra khỏi cuộc sống của họ, và gia đình họ chẳng biết làm gì ngoài mong đợi, băn khoăn và hy vọng. Em không thể khiến Nick quay về, thậm chí nếu em biết tìm anh ấy ở đâu. Em chỉ muốn giai đoạn này của cuộc đời mình chấm dứt.”

“Anh ấy không bị khủng hoảng tinh thần sao?”

Tôi lắc đầu. “Và công việc của anh ấy cũng không có gì khác thường. Có người nghi ngờ anh ấy có thể đã làm điều gì đó không thành thật, nhưng ủy viên quản trị của hội từ thiện nói rằng những sổ sách đều đúng. Em biết vài người tin rằng Nick đã có nhân tình ở đâu đó, hoặc thậm chí một người vợ khác. Nhưng em không tìm thấy gì trong email, nhật ký hay di động của anh ấy cho thấy dấu hiệu của một cuộc sống thứ hai. Vài người nghĩ rằng em đã ngoại tình và điều đó đã đẩy anh ấy xuống bờ vực, hay là anh ấy là người đồng tính, và không thể đối mặt; hoặc rằng anh ấy muốn thay đổi tình dục, hay tham gia một giáo phái, hay phát hiện ra anh ấy ở giai đoạn cuối của bệnh tật nào đó – hoặc đang sống trên mặt trăng với Elvis, đó là tất cả những gì chúng ta biết…”

“Anh cho rằng con người có xu hướng nghĩ rằng phải có lý do cho mọi chuyện,” Luke nói.

Tôi động đậy trên ghế. “Phải, đó là điều họ nghĩ.”

“Họ không thể tin rằng có những chuyện cứ… xảy ra.”

“Đúng… vậy. Nhưng trở thành trung tâm của quá nhiều tin đồn thật khó chịu. Và em không thể che giấu chuyện đó bởi vì có vài mẩu tin tức trên báo chí – kiểu như ‘Giám đốc hội từ thiện biến mất,’ – vì thế tất cả mọi người đều biết.”

“Thế bạn bè của em thì sao? Họ có giúp đỡ được gì không?”

“Chỉ ban đầu thôi – có thể đấy là lý do em trở nên gần gũi hơn với Felicity và Hope. Họ có thể khiến em phát điên lên theo những cách khác nhau, nhưng ít nhất em có thể dựa dẫm vào họ. Em có một cô bạn gái thân, nhưng cô ấy chuyển đến Mỹ sống với chồng không lâu sau đó. Tất cả những người bạn khác đều là bạn chung của Nick và em. Và tất nhiên lúc đầu họ tử tế, nhưng khi thời gian trôi đi họ bắt đầu lẩn tránh em – nhưng vậy thì anh nói gì? Ít nhất là một góa phụ còn có được sự tôn trọng, nhưng trong trường hợp này chỉ có lòng thương hại, hiếu kỳ và… bàn tán. Và bây giờ em xuất hiện trong chương trình TV quốc gia, em sợ rằng những tờ báo lá cải sẽ lại khơi lên mọi chuyện – thế nên anh không bao giờ được nói chuyện này với bất kỳ ai. Anh có hứa với em không?”

“Anh hứa. Anh nghiêm túc thề. Nhưng em có ý tưởng nào về lý do anh ta làm việc đấy không?”

Tôi xoay xoay chân ly rượu của mình. “Không… Không, em… không… biết. Khoảng thời gian đó anh ấy có đến Sudan, và trở về trong tâm trạng chán nản. Anh ấy cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cái chết của bố anh ấy. Ông làm việc cho Liên Hợp Quốc và Nick sùng bái ông. Ông chết vì cơn đau tim sáu tuần trước đó – ông chỉ mới sáu mươi ba tuổi – và sau đó Nick trở nên khá lạnh nhạt. Và tiếp đó, à, có một chuyện…” Tôi thở dài. “Chúng em gặp tai nạn. Hai tuần trước Giáng sinh, trên đường về nhà từ một bữa tiệc ở Sussex, xe chúng em bị xoay vòng trượt khỏi đường.”

“Em không sao chứ?”

Tôi dừng lại, nhớ lại ánh sáng xanh nhấp nháy của xe cảnh sát, tiếng hú và rền rĩ của xe cứu thương. Lòng tốt của những y tá. Đừng lo, họ nói với tôi. Sẽ ổn thôi. Nhưng không phải như thế.

“Nick bị một cú đập mạnh vào đầu. Anh ấy bị chấn động, và sau đó anh ấy dường như không… giống chính mình nữa.”

“Đó có phải là điều mà em ám chỉ khi nói bọn em có khó khăn không?”

“Ph-ải. Và em nghĩ, có lẽ là… anh ấy hơi bị rối loạn thần kinh, hoặc chứng quên nào đó…” Giọng tôi bé dần.

“Thế bây giờ em cảm thấy với anh ta như thế nào?”

Tôi thốt ra một hơi thở dài nặng nề. Nó dường như thoát ra từ một nơi rất sâu.

“Em chỉ cảm thấy… tức giận… đến mức… không thể tin được. Vì anh ấy biết mình đang ở đâu – nhưng em thì không. Nó giống như trò chơi trốn tìm đáng ghét. Và có rất, rất nhiều lần em hận anh ấy vì đã đẩy em qua địa ngục như thế này.”

“Nhưng anh ta cũng đang bị khủng khoảng, tội nghiệp.”

“Vâng,” tôi thở dài. “Tất nhiên. Về một khía cạnh nào đó em cảm thấy thương hại anh ấy – nhưng vấn đề chính là anh ấy đã để một đống hỗn loạn sau lưng. Ngoài sự căng thẳng, em đột nhiên phải trả tiền thế chấp một mình – chín trăm bảng một tháng – trong khi thu nhập của em cũng không nhiều. Tiền bảo hiểm cũng không được chi trả nếu chồng bạn mất tích. Em hoàn toàn rơi vào hoàn cảnh túng thiếu. Em tìm công việc làm ngoài giờ, soạn những câu hỏi cho chương trình đố vui, bố mẹ và Hope cho em mượn một ít tiền mặt.” Tôi lại nhớ Tom đã tốt như thế nào. Anh ấy thưởng cho tôi một ‘khoản’ hai ngàn bảng, bất chấp thực tế rằng anh ấy đang ở trong một vụ ly dị tốn kém.

“Sao em không bán căn hộ đi?” Tôi nghe Luke hỏi. “Chuyển đến một nơi nhỏ hơn?”

“Vì nó là tài sản đồng sở hữu, nên không thể.”

“Anh ta có rút tiền từ tài khoản ngân hàng không?”

“Không. Nhưng sau đó em phát hiện ra rằng anh ấy rút năm ngàn bảng từ sổ tiết kiệm của anh ấy, mười ngày trước đó, vì thế anh ấy rõ ràng đã chuẩn bị cho cuộc bỏ chạy này. Anh ấy biết anh ấy sẽ đi. Điều đó khiến chuyện trở nên tệ hơn. Thế đấy,” tôi thở dài. “Giờ thì anh biết rồi.”

“Nhưng em phải tiếp tục đi tiếp với cuộc đời của mình.”

“Vâng. Em đã đợi ba năm và sẽ không đợi thêm nữa. Nick đã tỏ ra rõ ràng rằng anh ấy không muốn gặp lại em nữa.”

Luke rút tay lại. “Nhưng anh muốn.” Tôi nhìn anh. “Anh rất muốn gặp lại em, Laura. Vậy… anh có thể không?” Anh dịu dàng hỏi. Anh liếc nhìn đồng hồ. “Dù sao thì em có năm giây để trả lời câu hỏi.” Tôi nhìn vào mắt anh. “Đồng hồ tích tắc…” Con ngươi của anh thật đen, tôi có thể thấy mình trong đó. Drriinggg! “Hết thời gian! Và câu trả lời là…?”

“À…”

“Anh xin lỗi, anh phải giục em thôi.”

Tôi nửa mỉm cười rồi nói. “Vâng.”

“Thực ư?” Tôi gật đầu. Anh đưa tay lên ngực với vẻ nhẹ nhõm. “Ồ, thật… tuyệt. Vậy… lúc nào? Để xem… Ngày mai anh sẽ bận vì đó là ngày của anh với Jessica, nhưng chiều Chủ nhật được không? Nếu được thế thì với anh rất tuyệt – Anh cảm thấy ngày Chủ nhật thật khó khăn khi Jessica trở về với mẹ con bé. Chúng ta sẽ có một bữa trưa ngon lành đâu đó. Em có thích thế không?”

“Em e rằng Chủ nhật này không được. Em phải đến dự lễ rửa tội của Olivia.”

“Ok vậy – thứ Hai. Thực ra thứ Hai sẽ là hoàn hảo.”

“Vì sao thế?”

“Vì hôm đấy là Ngày Lễ Tình Nhân.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.