Hai mươi phút sau đó tôi đến văn phòng. Khi đi về phía cuối khu nhà Mews, tôi nhìn thấy cửa trước đang mở toang, và đột nhiên Tom xuất hiện, trông có vẻ tràn trề sức sống trong một chiếc áo phông trắng và quần jeans, trên môi ngậm một điếu thuốc dùng trong trường hợp khẩn cấp, mỗi tay xách một túi rác căng phồng.
“Cảm ơn em vì đã đến.” Anh nói và vung hai túi rác vào trong chiếc thùng màu vàng lúc này đang chiếm mất chỗ đỗ xe. “Người ta sẽ đến đây vào sáng sớm mai để khoác cho nơi này hai lớp áo mới; sau đó vào buổi chiều họ sẽ lột đám thảm cũ và thay mới. Điều đó có nghĩa là tất cả đồ đạc đều phải được dọn sạch trong tối nay. Lắm việc hơn anh tưởng rất nhiều, mà anh lại phụ thuộc vào Dylan nhưng giờ anh ấy lại bị thương.”
“Chúng ta sẽ làm xong thôi.” Tôi nói. Cảm giác tức giận đối với Luke vẫn còn tràn ngập trong tôi với một sức mạnh điên cuồng làm cho cái ý tưởng về công việc chân tay trở nên hấp dẫn – và điều đó lại có ý nghĩa xây dựng hơn nhiều so với việc đập vỡ bát đĩa.
“Em ổn chứ, Laura?” Tom hỏi, liếc mắt nhìn tôi. Anh lấy điếu thuốc ra, rồi dụi nó vào tường. “Em trông hơi…”
“Em ổn,” Tôi vội trả lời. Tôi không muốn nói chuyện – hay nghĩ ngợi gì – về Luke. Tôi nhặt lên một sợi dây chun của Tom và buộc tóc lại. “Bắt đầu thôi.”
Chúng tôi ngắt kết nối máy tính và máy in. Sau đó dành vài giờ để di chuyển đồ đạc, đặt những chiếc bàn và ghế tựa trong mảnh sân nhỏ ở phía sau tòa nhà và dưới tấm nhựa. Rồi chúng tôi bắt đầu dọn sạch những tủ búp phê và nhanh chóng chất đầy mấy cái túi rác với nào là những băng video cũ, những cuộn phim về những người dẫn chương trình, hàng đống những hộp tư liệu quảng cáo dư thừa và những giấy tờ đã hoàn thành xong từ lâu.
“Đáng lẽ ta phải xử lý đám đồng nát này từ nhiều năm trước.” Tom nói khi anh đổ một chồng Broadcasts cũ vào trong túi rác. “Nerys đã lèo nhèo anh về chuyện này nhiều tháng trời, nhưng anh lại không thể đối mặt với nó.”
Chúng tôi làm việc vài giờ đồng hồ – thùng rác đầy dần lên, và chiếc áo phông của Tom đang dần trở nên nhem nhuốc và xám xịt – thế rồi anh liếc nhìn đồng hồ. “Hai rưỡi rồi. Tốt hơn hết chúng ta nên ăn gì đó – anh sẽ chạy ra ngoài và kiếm ít sandwich.”
Anh trở lại mười phút sau đó với hai túi giấy nhỏ.
“Em đang cười gì thế?” Tom hỏi khi đưa tôi một túi. Anh lật ngược một cái sọt gỗ trống và ngồi lên đó.
“Cái này.” Tôi giơ lên. “Em tìm thấy nó trong khi anh ra ngoài.” Đó là một bức ảnh của Tom và tôi, vây xung quanh là những chiếc thùng đóng kín, ngày đầu tiên của chúng tôi ở All Saints Mews. “Anh còn nhớ nó không? Tháng Chín năm 1999?”
“Nhớ chứ.” Anh nhìn tấm ảnh. “Lúc đó chúng ta quá kiệt sức vì cái nóng chiều muộn, đúng không? Trời phải đến hai mươi bảy độ C – và anh thì đang rối trí về những gì mà anh đã mạo hiểm. Anh đã vay mượn quá nhiều tiền – anh chưa bao giờ nghĩ là mình có thể làm được.” Anh đưa lại tấm ảnh.
“Em đã bảo với anh là anh sẽ làm được mà – và anh đã thành công. Một cách xuất sắc.”
“Chúng ta đã thành công.” Anh sửa lại. “Và bức ảnh còn lại em đang cầm là gì thế?”
“Ồ.” Tôi không định khoe anh tấm này. Tôi đưa nó cho anh và nhận thấy anh hơi tái mặt.
Chúng tôi đang ngồi tại bàn của mình ở lễ trao giải Bafta vào mùa xuân năm 2001, mỉm cười với ống kính. Chúng tôi được đề cử cho phim tài liệu Helen thành Troy, và ngồi cùng chúng tôi là một nửa của mình. Bên trái Tom là Amy, lúc đó đang mang bầu sáu tháng. Cô ấy trông xinh xắn trong chiếc váy đầm màu xanh nhạt với một bông hồng cài trên tóc, nhưng đồng thời tôi cũng có thể thấy cô ấy có vẻ căng thẳng. Theo như những gì tôi biết sau này thì nguyên nhân thật rõ ràng – cô ấy hẳn là đã biết, thậm chí là từ khi đó, rằng Tom đã phải lòng Tara, lúc này đang ngồi phía bên kia anh, xinh đẹp lộng lẫy, ngả người vào anh chỉ hơi xa một chút. Và rồi kia là tôi, ở ngay cận cảnh, cùng với Nick phía bên tay phải, trông to lớn và đẹp trai trong bộ Dj, cánh tay anh giang rộng phía sau lưng ghế của tôi. Chỉ vài tháng sau khi bức ảnh này được chụp, tất cả quan hệ của chúng tôi đều tan tành. Bức ảnh dường như rung lên với nỗi luyến tiếc và cảm giác ân hận.
Tom đưa trả nó lại mà không nói gì, rồi bóc khoanh phô mai của mình.
“Chúng ta trông trẻ quá.” Tôi nói, chỉ để phá tan sự im lặng.
Anh nhún vai. “Đã rất lâu rồi.”
“Chúng ta có giữ lại nó không?” Tôi hỏi, mặc dù đã biết câu trả lời.
“Anh không muốn. Nhưng anh thực sự muốn giữ lại cái này.” Tom giơ lên một tấm ảnh lớn chụp nhanh anh, tôi, Sara và Nerys đang ăn mừng buổi tổ chức chương trình Whadda Ya Know?!! Chúng tôi đang vẫy một chai Krug trước ống kính và Tom đang ôm chầm lấy tôi. Anh cười toe toét đến nỗi khó có thể nhìn thấy được mắt anh.
“Đó đúng là một khoảnh khắc hạnh phúc. Và tất cả là nhờ có em đấy, Laura.”
“Đâu – anh đã nghĩ ra cái khung chương trình đấy chứ.”
“Nhưng em khởi đầu cho toàn bộ ý tưởng, khi em nói với anh về việc soạn câu hỏi mà em đang làm. Em không nhớ sao?”
“Thì đúng. Nhưng nếu không phải vì Nick mất tích em cũng sẽ không phải làm công việc đó. Vì vậy, theo một cách suy diễn buồn cười, chúng ta nợ anh ấy chuyện này – dù anh ấy chẳng có tí ti ý tưởng nào cả.”
Tom gật đầu vẻ thông cảm.
“Mai là kỷ niệm mười năm ngày cưới của bọn em.” Tôi nói tiếp và bật nắp lon cô ca của mình. “Em không nghĩ bọn em sẽ làm điều gì đặc biệt.” Cảm giác thật lạ lẫm ngay cả khi chỉ nhắc đến nó, hơi tuyệt vọng, giống như cố gắng tổ chức sinh nhật cho một ai đó sau khi họ đã chết rồi vậy. Khi tôi mở gói khoai tây chiên, tôi tự hỏi không biết Nick có nhớ ngày này không, cho dù anh ấy đang ở đâu. Tất cả những tay nhà báo lá cải đã từ bỏ cuộc săn lùng rồi.
Tom và tôi bê vác, phân loại và thải bớt – đến lúc này đã là năm giờ rồi – sau đó bắt đầu lột tất cả các thứ ra khỏi mấy bức tường. Chúng tôi đặt toàn bộ những cuốn sách tham khảo vào trong thùng gỗ – những bản Trích yếu dày cộp, những cuốn Sổ tay Oxford và những cuốn Hướng dẫn Cambridge cứng còng. Tôi nhấc hộp Bách khoa Toàn thư Anh xuống khỏi giá, và rồi đây rồi, cuốn từ điển Latin cũ của tôi, và bên cạnh nó, giờ tôi đang nhìn thấy, là cuốn Horace của tôi. Vậy là nó ở đây. Khi tôi kéo nó ra, nó rơi xuống và mở đúng vào một trang đánh dấu.
***
Hãy nhìn xem Núi Soracte đứng sâu trong biển tuyết chói loà
và cây cối gắng sức không mang được đám cành lá,
và những dòng sông đông cứng với băng đá sắc nhọn…
Khơi cao ngọn lửa, và lấy ra O Thaliarchus,
món rượu vang bốn năm tuổi ngon nhất của ta…
Giao phó tất cả những thứ khác cho các vị thần…
đừng hỏi ngày mai sẽ đem đến điều gì,
và bất cứ điều gì mà số phận ban tặng,
hãy coi đó là lợi ích.
Giờ là lúc cho những câu chuyện tình và những điệu nhảy ngọt ngào,
trong khi ta còn trẻ, và tuổi già khó nhọc vẫn còn ở xa phía trước;
Thế nên, ngay lúc này hãy để những sân chơi và quảng trường,
tiếng cười và những lời thì thầm khe khẽ khi màn đêm buông xuống là mục tiêu theo đuổi của ta…
***
“Cái gì thế?” Tom hỏi. Tôi đưa cuốn sách cho anh. “Hay quá.” Anh nói. “Và bài này nữa – ở trang đối diện ấy.”
“ ‘Đừng hỏi số phận cuối cùng mà các vị thần đã ban cho…’” Anh đọc. “ ‘và cũng đừng hỏi lá số tử vi Babylon. Tốt hơn hết là hãy chấp nhận những gì sẽ đến; cho dù Jupiter có ban cho chúng ta nhiều mùa đông hơn hay đây có thể là mùa đông cuối cùng, mà lúc này đang xô biển Tuscan quăng vào những vách đá. Hãy khôn ngoan, lọc lấy rượu vang, và đừng nhìn quá xa về phía trước. Ngay cả khi ta đang nói thời gian cũng đang trôi rất nhanh. Vì vậy hãy nắm lấy hiện tại…’ Nắm lấy hiện tại…” Anh lặp lại.
“Không phải quá khứ.” Tôi lẩm bẩm. Tom liếc nhìn tôi dò hỏi.
Đột nhiên di động của tôi đổ chuông. Không nhìn vào màn hình, tôi trả lời.
“Laura!” Đó là Luke. “Anh chỉ cần nói chuyện với em thôi, Laura, để trực tiếp giải thích mọi điều – em thấy đấy, anh không nói dối em, bởi vì anh không hề nói là cô ấy không đi cùng…”
Tôi đóng sập điện thoại lại. Một giây sau, nó lại rung lên, và tôi phớt lờ nó. Nó kêu lên lần thứ ba và tôi do dự trong một giây, rồi bấm mã chặn số của anh ấy lại.
“Em ổn chứ?” Tom hỏi.
Tôi nhận thấy ánh mắt tò mò của anh. “Vâng,” tôi khẽ nói, “em ổn cả.”
Lúc này chúng tôi kéo đám thùng gỗ đựng sách ra phía sau, sau đó Tom tháo mấy chiếc giá ọp ẹp và chúng tôi quăng chúng vào trong thùng rác, rồi lột đám tranh ảnh và poster ra khỏi tường. Sau đó chúng tôi lên tầng trên và dọn sạch mọi thứ ở đó. Đến khi chúng tôi làm xong thì đã tám giờ. Lưng tôi ê ẩm và thái dương thì ướt sũng.
“Vậy là… xong rồi ư?” Tôi hỏi, mắt nhìn quanh. Ánh sáng đang nhạt dần.
“Chà, chỉ còn một thứ nữa.” Tom nói. “Nhưng em không cần phải ở lại đâu.”
“Dĩ nhiên là em sẽ ở lại – cái gì thế?”
“Arnie nói là anh nên lau qua mấy bức tường để chúng có thể khô qua đêm. Anh ấy nói lớp sơn trông sẽ đẹp hơn nhiều nếu làm thế. Có thể sẽ mất cả giờ đồng hồ nhưng như anh nói rồi đấy, em không cần phải ở lại. Em đã làm quá nhiều rồi và anh thực sự biết ơn vì em đã đến đây và giúp anh – giờ em sẽ đi đâu, Laura?”
“Đi xả đầy thùng nước.”
Mỗi người chúng tôi có một miếng xốp lớn – tôi thích nhúng nó vào trong làn nước ấm, rồi lau đi lớp bụi bẩn và cáu ghét bằng những động tác mạnh mẽ và quyết liệt như thể tôi đang đẩy ai đó đi rất rất xa. Hai vai tôi nhức nhối, nhưng tôi không quan tâm. Công việc đó làm tôi thỏa mãn và phân tâm. Đúng những gì tôi cần.
“Đây là Radio 4. Và giờ là lúc dành cho Word of Mouth[1] cùng với Michael Rosen.”
[1] Truyền miệng.
Tom đã tìm thấy cái đài thu bán dẫn nhỏ của anh, vì vậy trong lúc làm việc, chúng tôi lắng nghe một mẩu thảo luận về vấn đề liệu từ “nữ diễn viên” có được chỗ đứng của mình khi mà những từ “nữ tác giả” và “nữ linh mục” đã bị bỏ quên từ lâu. Tiếp đó là một tiết mục thú vị về tất cả những từ tiếng nước ngoài đã tìm được cách xâm nhập vào hệ thống ngôn ngữ tiếng Anh – như “zeitgeist”, “fiasco”, “karma” và “bonsai”.
“Những từ hay nhất là tiếng Pháp.” Tom nói. “Esprit de corps (tinh thần tập thể), crème de la crème (đỉnh của đỉnh), joie de vivre (niềm vui cuộc sống) – đó là một cụm hay đúng không – embarrass de richesses (sự thiếu thốn của nhà giàu)…”
“Cause célèbre (vụ kiện nổi tiếng).” Tôi trầm ngâm. “Crime passionel (tội lỗi bốc đồng)…” Tôi thích cụm đó. “Chỉ có người Pháp mới có thể lãng mạn hóa tội giết người.”
“Femme fatale (vẻ đẹp chết người),” Tom nói, “và dĩ nhiên, coup de foudre (tình yêu sét đánh)…” Anh thêm vào với vẻ hằn học.
“Hmmm… coup de foudre.” Choáng váng và sững sờ trước tình yêu.
Cho đến lúc này, bóng tối đã ập xuống, và cho đến lúc chúng tôi lên đến tầng trên cùng thì màn đêm đã buông xuống và chúng tôi phải làm việc dưới ánh đèn điện.
“Giờ thì cơ bản là xong rồi.” Tom nói khi chúng tôi xử xong phòng họp chính. Tôi cảm thấy một dòng mồ hôi chảy xuống lưng. “Này!” Đột nhiên Tom kêu lên.
Chúng tôi chìm vào bóng tối.
Tôi nghe Tom thở dài khi anh mò mẫm ra chỗ công tắc đèn điện và bật đi bật lại. “Hẳn là do bóng đèn rồi.” Anh lẩm bẩm. “Có một cái dự trữ ở trong bếp. Anh sẽ đi lấy.”
“Không phải do bóng đèn đâu.” Tôi nói khi liếc qua khung cửa đang mở. “Điện ở dưới tầng cũng mất rồi.”
“Vậy thì chắc là do cầu dao rồi.” Anh nói. “Anh sẽ phải sửa thôi. Hộp cầu dao ở ngoài khu vực lễ tân.”
“Đừng để em một mình, Tom.” Tôi cảm thấy một cơn sợ hãi trào lên. “Em không thích bóng tối. Thực ra thì, em ghét bóng tối.”
“Vậy thì xuống cùng anh. Nhưng cẩn thận đấy.”
Khi chúng tôi dò dẫm bước xuống khu vực đầu cầu thang, tay sờ soạng tay vịn cầu thang thì chúng tôi mới nhận thấy toàn bộ tòa nhà đều bị mất điện.
Tôi liếc ra ngoài cửa sổ. “Không nơi nào có điện cả.”
Khu vực Mews chìm ngập trong bóng tối, và ở phía bên kia, ánh đèn đường Lucozade cũng đã tắt ngúm. Xuất hiện những âm thanh cửa mở khi mọi người bước ra ngoài hay mở toang cửa sổ để xem có chuyện gì xảy ra. Ở phía xa chúng tôi có thể nghe thấy tiếng còi xe cảnh sát và còi xe hơi rền rĩ.
“Có thể chỉ là mất điện cục bộ thôi.” Tôi nói.
“Không,” Tôi nghe Tom nói. “Mất điện toàn bộ đấy. Đèn giao thông tắt rồi.” Tôi nhớ lại vụ cắt điện ở studio của chúng tôi vài tuần trước đó.
Tôi sải dài cánh tay trước mặt. “Anh ở đâu?” Tôi hỏi, nhịp tim tăng lên. “Em không nhìn thấy anh. Em không nhìn thấy gì hết.” Đột nhiên tôi nhìn thấy những điểm huỳnh quang trên mặt đồng hồ của Tom lơ lửng về phía tôi, rồi cảm thấy tay anh trên cổ tay tôi. Tôi nghe thấy tiếng click và xì xèo từ cái bật lửa của anh, rồi căn phòng ngập tràn một vầng hào quang ánh sáng. Giờ chúng tôi đã có thể nhìn thấy nhau, hình ảnh chúng tôi méo mó trong ánh lửa lập lòe, bóng của chúng tôi nhảy nhót trên những bức tường trống không.
“Chúng tôi cắt ngang chương trình này để thông báo cho các bạn một tin khẩn cấp.” Chúng tôi nghe thấy. “Phần lớn Luân Đôn và phía đông nam đã bị mất điện. Nguyên nhân hiện nay vẫn chưa được biết nhưng người phát ngôn cho công ty Điện lưới Quốc gia, Transco, đã nói rằng nguyên nhân khủng bố đã bị loại bỏ…”
“Có lẽ nó chỉ xảy ra vài phút thôi.” Tom nói khi anh giơ cái bật lửa cao hơn. Chúng tôi có thể nhìn thấy ngọn lửa phản chiếu trên kính cửa sổ, mặt chúng tôi lập lòe đỏ rực ở hai bên, như thể chúng tôi là những nhân vật trong một bức tranh của Rembrandt[2]. “Chỉ có thể ngồi chờ thôi.” Chúng tôi quay trở lại phòng họp và chúng tôi ngồi xuống trên chiếc ghế bành đôi Chesterfield bọc da màu nâu bự chảng không thể chuyển ra ngoài vì quá nặng.
[2] Rembrandt Harmenszoon van Rijn (15 tháng 7 năm 1606 – 4 tháng 10 năm 1669), thường được biết tới với tên Rembrandt hay Rembrandt van Rijn, là một họa sĩ và nghệ sĩ khắc bản in nổi tiếng người Hà Lan. Ông thường được coi là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất trong lịch sử hội họa châu Âu nói chung và Hà Lan nói riêng. Các tác phẩm của Rembrandt đã đóng góp quan trọng vào Thời đại hoàng kim của Hà Lan thế kỉ 17. (ND)
“Các bạn nên ở trong nhà cho đến khi nguồn cung cấp điện được kết nối lại. Chúng tôi sẽ cập nhật thông tin cho các bạn, nhưng lúc này trên Radio 5 đang có bản tin theo dõi. Trong khi đó ở Radio 4 này…”
Vẫn cầm cái bật lửa, Tom xoay nút dò sóng.
“… lời khuyên là nên ở trong nhà, tránh sử dụng lửa bất kỳ nơi nào có thể, và nếu bạn đang chuẩn bị lên đường thì nên hoãn lại cho đến khi điện được cung cấp trở lại. Vì vậy tham gia cùng tôi trên kênh Radio 5 lúc này là…”
“Nếu em muốn, anh sẽ đưa em về nhà.” Tom nói khi một tay chuyên gia năng lượng nào đó đang rì rào trên nền phát thanh. “Tối nay nhiều mây, nên ngoài trời khá tối…”
“Chúng ta không có đèn pin à?”
“Không. Nhưng chúng ta có thể đi cẩn thận.” Tôi nghĩ đến việc đâm đầu vào một cột đèn đường và làm vỡ mũi một lần nữa, hay ngã khỏi lề đường và làm vỡ mắt cá chân – hay bị cướp đường; điều đó có thể xảy ra lắm chứ. Tệ hơn, tôi nghĩ đến chuyện phải ở một mình trong căn hộ tối thui của mình.
“Em muốn chờ hơn, Tom. Em chắc là nó sẽ không kéo dài lâu đâu.”
“Tốt hơn anh nên tiết kiệm bật lửa, không còn nhiều ga lắm.” Anh thả ngón tay cái ra khỏi nút bật và chúng tôi lại bị bao phủ bởi bóng tối một lần nữa.
“Em ổn chứ?” Tom hỏi. Tôi nghe tiếng da thuộc rít lên khi anh ngồi thoải mái hơn trên chiếc ghế sofa.
Tôi kéo hai chân lên. “Em ổn.”
“Chí ít thì hôm nay cũng là tối Chủ nhật, chuyện này sẽ ảnh hưởng đến ít người hơn rất nhiều so với những ngày bình thường.” Chúng tôi nghe người phát thanh trên radio nói. “Giống như vụ cắt điện vào tháng Tám năm 2003, các bạn còn nhớ chứ?” Sau đó là một cuộc nói chuyện sôi nổi về vụ đó. Thế rồi một khách mời nữ chỉ ra rằng có nhiều người đi xa, bởi vì hôm nay là ngày lễ Ngân hàng nên đó cũng là một điều tốt. Tôi ủ dột nghĩ đến Luke. Sau đó có một cuộc thảo luận về thời kỳ thiếu điện trên diện rộng ở Bắc Mỹ năm 2003 khi 55,000 người bị ngập chìm trong bóng tối vì 21 trạm cung cấp điện ngừng hoạt động. Thế rồi chúng tôi được nghe những cập nhật thêm về chuyện gì đang xảy ra ở Luân Đôn khi những phóng viên radio bắt đầu trình bày.
“Hàng trăm người bị mắc kẹt trong đường tàu…”
“Các bệnh viện có máy phát điện dự phòng, dĩ nhiên rồi…”
“Mọi người túa ra từ các rạp chiếu phim…”
“Một bầu không khí lạ lẫm… thật yên tĩnh…”
“Giao thông tắc nghẽn…”
Có một suy đoán về việc liệu sự cố mất điện này có phải do sự nóng lên của thái dương hệ – nhưng một nhà thiên văn học đã gọi điện đến để bác bỏ ý kiến này. Sau đó họ thảo luận về chuyện liệu đây có thể là một hành động phá hoại kinh tế của những kẻ chống lại những nhà tư bản hay không, như là một tiết mục mở màn cho các cuộc biểu tình chống đối ngày Lễ tháng Năm sẽ diễn ra vào ngày hôm sau.
“Anh không tin một chút nào chuyện đó.” Tôi nghe Tom nói. “Đó chỉ là một vụ lộn xộn thôi.”
Từ bên ngoài chúng tôi có thể nghe thấy người ta nói chuyện, và thậm chí là cười đùa. Ai đó đang chơi guitar. Khi chương trình chuyển sang các vấn đề khác, Tom tắt radio đi. “Mười giờ mười lăm phút rồi,” anh nói, “Khoảng mười giờ rưỡi sẽ lại có điện, có thể là sớm hơn.”
Hai mươi phút sau điện vẫn chưa có lại. Vì thế, không thể làm gì khác nữa, chúng tôi chỉ ngồi đó, bên cạnh nhau, trong bóng tối êm dịu, nói chuyện, hay đúng hơn là thì thầm, như thể bóng đêm đã làm cạn lòng tự tin của chúng tôi. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng thở của nhau.
“Giống như là ở trong rạp chiếu phim mà không có phim vậy.” Tom nói. “Anh biết…” Tôi nghe thấy tiếng bàn tay anh sột soạt trong túi quần và rồi anh bật chiếc bật lửa lên trở lại. “Giữ nó cho anh nhé. Đúng rồi… lên một chút… như thế…” Anh ngồi về phía trước, rồi chắp hai tay lại với nhau, sau đó giơ lên tường phía trước mặt, mấy ngón tay chỉ xuống dưới, ngón tay cái chĩa lên trên. Bóng bàn tay mờ đi, rồi lại rõ nét. “Đây là gì nào?” Anh hỏi.
Tôi trố mắt nhìn nó. “Chà… trông giống… một con chó.”
“Không phải chó. Gợi ý nhé…” Cái bóng bắt đầu ‘nhảy lò cò’ trên tường.
“Thỏ à?”
“Không. Thỏ không có tai dỏng lên như thế.”
“Thế có phải ngựa không? Một con ngựa – đang nhảy qua một cái gì đó.”
“Không.”
“Lạc đà không bướu.” Tôi tuyệt vọng nói.
“Lạc đà không nhảy được.”
“Nhưng chúng có tai dỏng lên mà.” Nhảy ư… “Kangaroo! Là kangaroo đúng không?”
“Không. Nhưng gần đúng rồi – đó là một con wallaby[3].”
[3] Một loại kangaroo nhỏ.
“Ồ.”
“Em có thể đoán ra từ hình dáng chiếc mũi. Mũi wallaby ngắn hơn kangaroo.”
“Đúng rồi…”
“Nhưng dĩ nhiên là khó nhìn ra bởi vì ngọn lửa hơi lập lòe – em thực sự cần một chiếc đèn pin. Hơn nữa lâu rồi anh cũng không luyện tập. Bọn anh thường chơi trò này mỗi khi đến khu nhà nghỉ ở Hồ Memphremagog khi còn nhỏ.”
“Nó ở đâu thế?”
“Ở miền đông nam Quebec, không xa Montreal lắm. Ở đó đẹp lắm. Bọn anh thường bơi xuồng và câu cá… và chơi trò tạo hình bằng tay.”
“Rõ ràng anh coi trò này là nghiêm túc.”
“Không có gì nhiều để bọn anh làm vào mỗi buổi tối. Mẹ anh có thể tạo thành một con voi rất thật.”
“Voi châu Phi hay Ấn Độ?”
“Này, bật lửa đã yếu lắm rồi – tốt hơn hết anh nên tiết kiệm. Chuẩn bị tinh thần nhé.” Ngọn lửa biến mất và tất cả trở nên tối hù như đêm ba mươi trở lại.
Tôi rùng mình đến mức có thể nghe thấy được.
“Em thực sự ghét bóng tối, đúng không?” Tôi nghe Tom hỏi.
“Vâng, em sẽ không tệ lắm nếu có ai đó khác ở cùng – nhưng em không chịu được nếu như chỉ có một mình. Đừng cười em… nhưng em vẫn còn ngủ với một cái đèn ngủ nhỏ đấy.”
“Thật sao? Và chú gấu Teddy nữa chứ?”
“Không. Em tặng nó cho Luke nhiều năm về trước rồi – và anh ấy vẫn còn giữ nó. Nhưng em sẽ không tìm kiếm sự chăm sóc,” tôi thêm vào. “Hay thậm chí là những lời hỏi thăm gần gũi dành cho nó đâu.”
Tôi nhận thấy Tom khẽ cựa quậy bên cạnh tôi. “Nghe có vẻ không hay lắm nhỉ.”
“Không hề. Thực ra là rất tệ.”
“Thế giờ anh ấy đang ở đâu?”
“Venice.”
“Ừ hử.”
“Với Magda.”
“Ồ…”
Tôi kể cho Tom nghe chuyện gì đã xảy ra.
“Jesus…” Anh thở hắt ra. “Thật sai lầm. Vậy… thế là hết à?”
Tôi hít vào một hơi. “Vâng. Em nghĩ thế… Không phải bởi vì anh ấy đưa cô ta đến đó – và thậm chí còn không phải bởi vì anh ấy cúi rạp như một con chó săn trước những mệnh lệnh của cô ta, cho dù chúng có bất hợp lý như thế nào – mà bởi vì anh ấy đã không trung thực.”
“Anh ta nói dối em à?”
“Ồ không. Luke không bao giờ nói dối. Anh ấy chỉ bỏ qua mọi chuyện. Những chuyện quan trọng. Như cái thực tế là anh ấy đưa vợ cũ đến Venice. Anh ấy hẳn phải biết từ trước đó một tuần, nhưng anh ấy phớt lờ chuyện đó đi mỗi khi bọn em nói chuyện, để tự bảo vệ chính mình.”
“Anh ta phớt lờ cả em nữa.” Tom nói.
“Đúng vậy.”
“Anh rất tiếc. Anh có thể nhận thấy em không vui khi em vừa đến.”
“À… giờ em thấy khá hơn rồi. Chí ít thì hôm nay em cũng đã nhận ra – thực ra là với sự giúp đỡ của Nerys…” Tôi cảm thấy cảm giác tội lỗi cuộn lên, “rằng em đến với Luke vì lý do sai lầm.”
“Lý do gì thế? Cố gắng hoàn thành một việc dang dở à?”
“Không. Chỉ đơn giản là vì sợ hãi. Sợ những điều không biết. Sợ một sự khởi đầu mới. Và em nghĩ rằng đó cũng là lý do anh ấy đến với em. Bởi vì anh ấy có quá nhiều nỗi đau về tình cảm. Và em nhắc anh ấy nhớ đến một khoảng thời gian hạnh phúc trong cuộc đời của anh ấy.” Luke cũng đã cố gắng nắm lấy quá khứ.
“Nhưng hôm nay, Nerys đã làm em phải tự hỏi mình câu hỏi đó – tại sao em lại đến với anh ấy – và em nhận ra câu trả lời. Và đó không phải là một lý do đủ hợp lý để đến với một ai đó.”
“Vậy là tốt hơn hết nên kết thúc.” Tôi nghe Tom nói. Tôi có thể nghe thấy hơi thở khẽ khàng, đều đặn của anh, và có thể mường tượng ra anh trong cái bóng mờ mờ. “Và anh cũng đã nói với Gina là chuyện của bọn anh sẽ không tiếp tục được nữa.”
Vậy là một lần nữa Nerys lại đúng.
“Hôm qua anh gặp cô ấy và đề nghị bọn anh có thể chỉ là… bạn bè được không. Anh vẫn thích được thăm hỏi họ, và chơi đùa với Sam, nhưng anh không muốn dính dáng sâu đậm về mặt tình cảm với cô ấy bởi vì…”
“Bởi vì nó quá lộn xộn ư, với người chồng cũ?”
“Không. Thực ra nó đơn giản hơn thế nhiều. Bởi vì khi anh đi xa, anh nhận ra rằng người anh nhớ không phải là Gina, mà đó là Sam. Anh thực sự không nghĩ đến cô ấy, nhưng anh lại nghĩ đến thằng bé. Anh tưởng tượng ra nó chơi trên chiếc ghế đu, hay lái chiếc xe ba bánh, hay ngồi trong chiếc ghế bành nho nhỏ của nó và xem CBeebies.”
“Anh rất yêu quý nó.”
“Đúng thế…” Giọng anh nghẹn lại. “Anh quý nó.” Tôi nhìn thấy mặt đồng hồ phản quang di chuyển lên mặt anh, rồi lại rơi xuống. “Nhưng anh biết rằng anh không yêu cô ấy. Nếu không phải vì hôm đó cô ấy đưa danh thiếp cho anh, thì sẽ không có chuyện gì xảy ra cả. Cô ấy đã xúc tiến mối quan hệ. Cô ấy cũng xúc tiến mối quan hệ của anh với Sam.” Tôi nghĩ đến tấm thiệp Valentine mà cậu bé đã ‘gửi’. Nó thật ngọt ngào, nhưng cũng hơi mánh khóe. “Cô ấy đã kiếm tìm một người để lấp đầy Khoảng trống của người bố.”
“Nhưng anh không thấy hấp dẫn sao?”
Tôi nghe anh thở dài. “Xét về một mức độ thì có đấy. Nếu như anh có những cảm xúc mạnh mẽ hơn dành cho cô ấy thì anh hẳn sẽ thích đóng vai trò đó trong cuộc đời của Sam – thậm chí anh có thể chịu đựng được tay chồng cũ đần độn của cô ấy. Nhưng anh không yêu cô ấy – và anh không nghĩ rằng cô ấy yêu anh. Cả hai bọn anh đều lao vào mối quan hệ đó vì lý do sai lầm. Cô ấy tìm kiếm một người bố thay thế trong khi anh lại…”
Tìm kiếm một đứa con thay thế…
“Anh tìm kiếm điều gì, Tom?” Tôi chỉ có thể mường tượng ra đôi mắt sáng rực của anh khi anh quay đầu về phía tôi, rồi lại quay đi.
Im lặng bao trùm. “Anh đoán là… anh tìm kiếm… con trai anh.” Từ một nơi nào đó chúng tôi nghe thấy tiếng kim đồng hồ điểm giờ chẵn. “Anh nhớ nó.” Tom rầm rì.
“Em đã nghĩ thế. Nhưng bởi vì anh chưa bao giờ nói về chuyện đó nên em cũng chưa bao giờ đề cập đến. Nhưng em biết điều đó phải đau đớn đến mức nào.”
Tôi nghe thấy một tiếng thở hắt ra khe khẽ. “Nó giống như một cái hố trong trái tim. Khi nó bị tách ra khỏi anh, anh đã nghĩ rằng mình sẽ chết.”
“Vậy là… anh chưa hề được gặp lại cậu bé ư?”
“Ừ. Nhưng anh luôn kiếm tìm nó. Mỗi khi nhìn thấy những đứa bé bằng tuổi nó, tim anh lại ngừng đập.”
“Anh không liên lạc gì với cậu bé sao?”
“Không.”
“Mặc dù anh đã từng kết hôn với Amy ư? Như thế thật tàn nhẫn. Nhưng thực ra chuyện này hẳn cũng rất tàn nhẫn đối với cô ấy.”
“Đó là những gì cô ấy nói. Rằng nó làm tim cô ấy tan nát.”
“Vậy em cho rằng chỉ là cô ấy không thể đối mặt với anh – có phải thế không?”
“Phải. Cô ấy nói thậm chí cô ấy còn không thể chịu được việc chỉ nhìn anh… mà biết rằng…” Tôi nghe Tom nuốt xuống.
“Rằng anh đã… rời bỏ cô ấy? Rằng anh đã bỏ ra đi?” Tôi nhận thấy mình đang dò hỏi, nhưng tôi không thể dừng lại. Tôi muốn nghe anh nói về chuyện đó, để tôi có thể hiểu được.
“Đúng là anh đã bỏ ra đi,” anh nói khổ sở. “Đúng là như thế. Nhưng cô ấy làm anh… đau đớn, Laura.”
“Nhưng anh có thể thực lòng đổ lỗi cho cô ấy sao, Tom? Ý em là, đừng giận khi em nói thế này, nhưng những gì anh đã làm – em không bao giờ có thể hiểu được. Ý em là… xin lỗi anh – em không có ý giảng đạo và em biết rằng luôn có một khoảng cách lớn giữa phần này với phần kia trong cuộc đời của một con người – nhưng anh biết là em rất quý anh và em đã luôn rất tôn trọng anh – và em chỉ… không thể…”
“Laura – em đang cố nói điều gì thế?”
“Em đang định nói… Thôi được – em đang cố nói rằng đơn giản là em chưa bao giờ hiểu được làm sao anh lại có thể làm như thế. Làm sao anh có thể bỏ Amy – nhất là trong thời điểm như thế.”
“Bởi vì anh buộc phải làm như thế.” Tom nói thẳng băng.
“Nhưng anh không bắt buộc phải làm điều đó – em xin lỗi, Tom, em biết đây không phải chuyện của em, nhưng chỉ là em không hiểu được, bởi vì anh là một người tuyệt vời và anh biết là em muốn hiểu…” Cổ họng tôi nhức nhối với một tiếng nức nở kềm nén. “Em muốn hiểu làm thế nào mà một người em yêu quý và ngưỡng mộ nhiều đến thế lại có thể bỏ rơi vợ anh ta chỉ một tháng sau khi cô ấy sinh con, và… bỏ đi với một người đàn bà khác.”
Một sự im lặng choáng váng buông xuống. Tôi thực sự đã xúc phạm anh. Đáng lẽ tôi nên giữ im lặng.
“Nhưng… anh không hề làm như thế.” Tôi nghe anh thì thào.
“Sao cơ?”
“Anh không bỏ đi với người đàn bà khác.”
“Nhưng rõ ràng là thế mà. Anh đã yêu Tara và rồi anh bỏ Amy, mặc dù cô ấy chỉ mới sinh con vài tuần trước đó. Tại sao anh lại phủ nhận chứ?”
“Vì sao anh phủ nhận ư?” Anh lặp lại. Tôi có thể hình dung ra những tia yếu ớt trên mắt anh, đang nhìn chằm chằm vào tôi trong bóng tối. “Anh phủ nhận bởi vì điều đó không đúng. Em lấy cái ý tưởng tầm bậy ấy từ nơi quái quỷ nào thế?”
“À…” Tôi có thể cảm thấy mình chớp mắt lia lịa vì hoang mang. “Từ những gì em hiểu tại thời điểm đó… và thực ra là từ chính em gái anh.”
“Christina ư? Như thế nào?”
“Khi chúng ta cùng đi ăn trưa. Anh không nhớ sao? Anh phải lánh đi để nghe một cú điện thoại và trong khi anh ra ngoài cô ấy đã giải thích cho em biết chuyện gì đã xảy ra – cô ấy bất ngờ nói với em về chuyện đó – dường như cô ấy muốn giải tỏa gánh nặng cảm xúc của mình về chuyện đó.”
“Nhưng nó không thể nào nói với em như thế.”
“Nhưng cô ấy thực sự nói thế, Tom. Nếu không thì sao em lại nói với anh như thế chứ?”
Tôi nghe thấy tiếng ghế sofa kẽo kẹt khi anh ngồi thẳng người lên. “Nói cho anh biết nó đã nói gì.”
Tôi nhớ lại ngày hôm đó. “Cô ấy đề cập đến chuyện anh bỏ Amy và rồi nói rằng… đó là một ‘coup de foudre’ – đó chính xác là điều mà cô ấy đã nói. Em có một trí nhớ tốt, anh biết đấy. Và rõ ràng là cô ấy có ý nói rằng anh đã chết mê chết mệt Tara và rằng anh không thể… ngăn mình lại.” Tôi có thể cảm thấy ánh mắt dữ dội của Tom khi chúng tôi nhìn nhau chằm chằm trong bóng tối.
“Laura, đó không phải là ý nó ám chỉ, và đó không phải là điều mà nó có thể nói ra. Bởi vì điều đó không đúng.”
“Không ư?”
“Không. Vì lý do đơn giản là cái ‘coup de foudre’ đó không phải là của anh.”
“Sao cơ?”
“Đó là Amy.” Im lặng bao trùm xuống. “Anh nghĩ đó là điều mà Christina đã cố gắng nói với em.”
“Là Amy ư?”
“Cô ấy đã ‘coup de foudre’. Cô ấy ngoại tình. Cô ấy đã ‘bỏ đi’ – Anh đã nghĩ rằng em biết điều đó, Laura.”
“Không.” Tôi yếu ớt lên tiếng. “Em không biết.”
“Anh đã cho rằng tất cả mọi người đều biết. Khi chuyện đó xảy ra, anh đã cho rằng bọn em hẳn phải bàn tán về nó – anh cũng không trách móc gì nếu như em làm thế.”
“Không. Không ai từng bàn tán về anh theo kiểu đó, Tom, vì thế em không biết gì về những điều mà những người khác nghĩ trong đầu, nhưng em đã nghĩ rằng…”
“Em nghĩ gì? Rằng anh đã bỏ rơi Amy, khi cô ấy vừa mới sinh con, bởi vì anh đã đem lòng yêu Tara McLeod ư? Có phải đó là những gì em đã nghĩ không?”
“Vâng,” Giọng tôi khào khào, “Đúng là thế. Đó chính xác là những gì em đã nghĩ.”
“Em có nghiêm túc nghĩ là anh sẽ cư xử như thế không? Bỏ rơi vợ mình khi cô ấy vừa sinh con? Đó là còn chưa nói đến chuyện bỏ rơi chính con đẻ của mình.”
“À, không…” Giọng tôi nghẹn lại. “Em không nghĩ thế – đó là lý do vì sao em không thể hiểu được. Vào thời điểm đó em chỉ cảm thấy sửng sốt. Bởi vì em nhớ anh đã hạnh phúc như thế nào khi Amy có thai, và anh đã trông chờ được trở thành bố đến mức nào; và anh đã sung sướng ra sao khi Gabriel sinh ra. Và tất cả bọn em đã bật champagne cùng với anh, buộc bóng xanh vào ghế ngồi của anh. Em sẽ không bao giờ quên được anh đã hạnh phúc đến dường nào.”
“Anh đã hạnh phúc.” Tôi nghe giọng anh nghẹn lại. “Cái ngày Gabriel được sinh ra là ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời anh. ‘Không có gì có thể kỳ diệu hơn điều này,’ anh đã tự nhủ như thế.”
“Em thực sự xin lỗi, Tom.” Tôi nói, cảm thấy nước mắt dâng đầy lên trong mắt. “Em đã hiểu sai. Em đã hiểu sai trong suốt thời gian qua, nhưng anh thấy đấy, em đã nghĩ rằng – nhưng em đã sai rồi – vậy đó là… Amy.” Đó là một coup de foudre. “Christina đã nói về Amy. Nhưng… lúc đó…”
“Rõ ràng là em không biết, đúng không Laura?”
“Biết gì cơ?” Và rồi tôi nhận ra.
“Gabriel không phải là con anh.”
“Không…” Ngực tôi quặn lại.
“Không phải con anh.” Giọng anh khàn đi.
“Ôi,” Tôi khẽ kêu lên. Ôi…
“Đến giờ đã bốn năm trôi qua rồi, vì thế anh có thể nói về chuyện đó. Và có lẽ lý do duy nhất mà anh đang nói về chuyện này là bởi vì chúng ta đang ở trong bóng tối mịt mùng, và anh không thể nhìn thấy mặt em hay phản ứng của em, thế nên nó làm anh cảm thấy can đảm hơn và liều lĩnh hơn thường ngày, và đồng thời, thật lạ lùng, an toàn hơn. Và cũng bởi vì anh không ngại em biết chuyện này, Laura – như anh nói, anh đã nghĩ rằng em biết. Nhưng Amy đã gặp gỡ người khác. Anh không hề biết…”
“Thế… anh phát hiện ra chuyện đó thế nào?”
“À… cô ấy đã xử sự rất lạ sau khi sinh. Cô ấy rất quấn quýt với Gabriel, nhưng cô ấy khóc rất nhiều, và nếu như anh ôm ấp thằng bé, cô ấy liền trở nên khó chịu. Anh đã nghĩ rằng đó là chứng trầm uất sau khi sinh – thêm nữa thằng bé bị bệnh vàng da khá nghiêm trọng nên cô ấy rất lo lắng. Vì thế anh lại càng chiều chuộng cô ấy hơn, nhưng điều đó dường như chỉ làm cô ấy trở nên tồi tệ hơn nữa. Và rồi… khi Gabriel được gần ba tuần tuổi, bệnh vàng da của nó trầm trọng hơn, và thằng bé phải nhập viện St. Mary’s.”
“Em có nhớ chuyện đó…”
“Họ khuyên nên truyền máu, được gọi là thay máu khi mà về cơ bản họ thay thế toàn bộ số máu. Nhưng họ nói rằng nguồn máu hiến tặng phải lấy từ nguồn Ngân hàng Máu Hiếm, bởi vì nhóm máu của Gabriel rất không bình thường – nhóm AB dương với RzRz kháng nguyên. Và anh bảo rằng chuyện đó là không thể nào, bởi vì nhóm máu của anh là loại phổ biến nhất – nhóm O dương – và Amy là nhóm A âm, và không thể nào Gabriel lại mang nhóm máu hiếm như thế nên chắc chắn là họ đã nhầm lẫn. Anh đã nói thêm là anh cũng biết chút ít về chuyện này bởi vì một người bạn thân của anh ở Canada cũng có cái thứ RzRz này, và cậu ta thừa hưởng nó từ ông cố của mình vốn là người dân bản xứ Mỹ. Nhưng bác sĩ cứ khăng khăng là không có nhầm lẫn nào cả. Và trong suốt thời gian đó Amy trở nên rất kích động, nhưng anh lại nghĩ rằng đó chỉ bởi vì Gabriel ốm quá. Anh vẫn không hiểu ra.
Thế rồi bác sĩ rời phòng – anh không biết tại sao bà ta lại làm thế, nhưng sau đó thì anh nhận ra – Amy ngã quỵ xuống và khóc. Rồi cô ấy cứ nói xin lỗi mãi, hết lần này đến lần khác, rằng cô ấy có lỗi thế nào, và rằng cô ấy không định đối xử với anh như thế. Anh liền hỏi, ‘Đối xử gì với anh cơ? Em đã làm gì với anh?’ Anh đã nghĩ là chuyện gì đó liên quan đến bệnh tật của Gabriel. Rằng cô ấy cảm thấy là lỗi của cô ấy theo phương diện nào đó…” Tom dừng lại. “Và rồi cô ấy nói với anh. Cô ấy bảo anh rằng Gabriel không phải con anh.
Anh cảm giác như thể anh rơi xuống một khe vực… vì thế anh nói, ‘Em nói Gabriel không phải con anh là có ý gì? Dĩ nhiên nó là con anh – làm sao có thể không phải cơ chứ?’ Đầu óc anh đơn giản là không tiếp nhận những gì cô ấy đang nói. Nhưng rồi cuối cùng anh đã hiểu ra. Và rồi dĩ nhiên, cô ấy thậm chí còn không cần phải nói ra tên của người đó. Anh chỉ có cái cảm giác tồi tệ đó. Ở đây.” Tôi nghe anh vỗ vào ngực mình đánh thịch. “Như thể tất cả mọi thứ bên trong đã đổ sụp.”
“Anh ta là bạn thân à?”
“Ừ. Bọn anh ở cùng nhau ở McGill. Cậu ta làm việc cho CBC và rồi được điều đến Luân Đôn. Trước đó cậu ấy chưa hề thực sự gặp Amy – cậu ấy không đến dự đám cưới được. Vì thế anh mời cậu ấy ghé chơi không lâu sau khi cậu ấy đến Luân Đôn, và tất cả bọn anh cùng ăn tối, và rồi họ chỉ… phải lòng nhau. Sau đó cô ấy nói với anh rằng đó là một ‘coup de foudre’ – đó là cách cô ấy cố giải thích với anh, và cho bản thân cô ấy. Chuyện tình của họ diễn ra trong hầu hết khoảng thời gian đó. Và anh nhớ là anh đã ngạc nhiên khi cô ấy dường như không vui vẻ gì hơn khi có thai. Nhưng cô ấy đã ở trong tâm trạng tồi tệ nhất một cách kín đáo.” Tôi nghĩ về bức ảnh chụp tất cả chúng tôi ở Baftas. Và giờ tôi hiểu lý do thực chất cho sự căng thẳng trên mặt Amy.
“Anh đã làm gì khi phát hiện ra?”
“Anh không biết phải làm gì, thậm chí có nên bế Gabriel lên hay không. Anh khát khao điều đó, nhưng cùng lúc đó anh cảm thấy không nên – rằng anh đã mất đi cái quyền đó. Và Amy nói với anh rằng cô ấy yêu anh, nhưng cô ấy lại muốn sống với Andy, vì thế những gì anh phải làm trở nên rõ ràng. Nhưng thậm chí là bây giờ, sau bốn năm trời, anh vẫn nghĩ đến Gabriel như là con ‘của anh’. Đứa con trai bé bỏng của anh. Nhưng không phải thế. Thế đấy, đó là những gì đã xảy ra.” Tôi nghe Tom nói. Anh vỗ hai tay lại với nhau với một vẻ phấn khởi mỉa mai và một tiếng vọng nhỏ dội lại từ những bức tường. “Bọn mình ai cũng có những câu chuyện buồn phải không, và đó là chuyện của anh.”
“Chuyện buồn thật.” Cùng một lúc, anh mất vợ và con – và toàn bộ cảm giác làm cha, là người đàn ông của gia đình. Tất cả những điều mà Luke đã nói đến, nhưng tồi tệ hơn rất nhiều. Những nữ yêu mình người cánh dơi đã sà xuống và cướp mất niềm vui của anh.
“Vậy đó là lý do vì sao anh trở nên gắn bó với Sam.”
“Phải. Thằng bé đúng bằng tuổi.”
“Và anh chưa từng gặp lại Gabriel?”
“Chưa. Bởi vì nó không còn là con anh, cũng giống như Sam. Anh không có vai trò gì trong cuộc đời của nó – giờ anh chỉ đơn giản là chồng cũ của mẹ nó. Amy và anh đã chia tay với những điều tồi tệ. Rồi cô ấy về Canada với Andy, và trong thời gian đó anh học cách nghĩ về Gabriel theo một cách khác. Nhưng khi anh quay trở lại Montreal thì cảm giác vẫn khó khăn bởi vì anh phải đi qua nơi họ sống chỉ trong bán kính một dặm.”
“Vậy đó là những gì anh muốn nói khi anh bảo rằng chuyến đi của anh thật ‘nặng nề’.”
“Phải. Nhưng dĩ nhiên anh phải đi, bởi vì bố mẹ anh ở đó. Đó là những gì đã xảy ra, Laura. Và lý do Christina nói như thế bởi vì nó cho rằng em đã biết sự thật, và không muốn em nghĩ xấu về Amy vì nó vẫn luôn yêu quý cô ấy. Nhưng em lại hiểu ngược lại hoàn toàn và cuối cùng lại nghĩ xấu về anh.”
“Em thực sự xin lỗi. Nhưng khi đó… anh biết mà, những gì đăng trên báo cũng làm em rối trí nữa. Có vài bài nói rằng anh và Tara đang cặp đôi và rằng Amy đã quẫn trí về chuyện đó.”
“Laura, gần đây em đã học được gì về những thứ đọc được trên các tờ báo lá cải – và báo khổ rộng?”
“À, vâng,” Tôi thở dài. “Nhưng chuyện đó nghe thuyết phục, và vấn đề là, Tom, anh chưa bao giờ phủ nhận nó. Anh chưa bao giờ đến văn phòng và nói với bọn em, ‘Nghe này, có một chuyện về tôi trên báo hôm nay, nhưng tôi muốn mọi người biết rằng đó không phải là sự thật.’”
“À. Đúng là em nói có lý ở điểm này.” Anh nói. “Vào thời điểm đó Tara có một tay đại diện rất huênh hoang, và hắn ta mớm cho báo chí câu chuyện anh ‘gặp gỡ’ cô ấy – anh nghĩ là hắn cho rằng một chút tranh cãi sẽ là tốt cho sự nghiệp của cô ấy. Anh không thích chuyện đó – nhưng một khi nó đã xảy ra thì anh không phủ nhận, không, bởi vì anh thà là để người ta nghĩ anh là một tay vô lại hơn là…” Giọng anh lạc đi. “Vì vậy, đúng thế, anh có thể hiểu vì sao chuyện đó dẫn đến sự hiểu lầm nơi em – Nhưng sự thực là Tara và anh chỉ là bạn – không có gì hơn thế. Lúc đó anh không thể nào liếc mắt nhìn người đàn bà nào khác, chứ đừng nói là…” Tôi nghe anh thở dài. “Lúc đó anh thật rối trí.”
Tôi nhớ lại. “Anh đã che giấu chuyện đó rất giỏi. Em có thể thấy là anh rất suy sụp, nhưng em lại cho rằng đó là do chuyện ly dị. Hơn nữa anh chẳng bao giờ nói về cuộc sống riêng tư cả – ngay cả khi anh vẫn thường ghé qua và đem các thứ cho em trong vài tuần đầu tiên sau khi Nick biến mất. Đáng lẽ khi đó anh có thể nói về chuyện đó. Em ước gì anh làm thế – như vậy em hẳn sẽ biết sự thật, thay vì những gì…”
“Anh không muốn nói về chuyện đó – hơn nữa em cũng có những rắc rối nghiêm trọng của riêng em rồi. Và ở văn phòng thì anh giấu những tình cảm của mình bởi vì anh không muốn mọi người cảm thấy thương hại anh – em nên hiểu điều đó – và bởi vì anh còn phải điều hành công ty nữa. Anh muốn mình đổ sụp – nhưng anh không thể. Tuy nhiên, anh có nói với Tara về chuyện đó. Bọn anh cùng đi xem phim và uống rượu với nhau. Cô ấy đã an ủi anh, nhưng không phải theo cách mà em đã nghĩ.”
“Đúng là em đã nghĩ thế… mặc dù tự trong sâu thẳm em vẫn không thể tin được…”
“Em đã tin.”
“Nhưng chỉ bởi vì nó hiển hiện là đúng như thế, bởi vì a) nhìn bề ngoài nó là như thế, đặc biệt là với những bài báo và b) em bị lạc lối bởi cuộc nói chuyện kỳ quặc với Christina…”
“Dường như em không bao giờ thoát ra khỏi a) và b), đúng không Laura?” Tom mệt mỏi nói. “Nhưng còn từ c) đến z) thì sao – còn cái thực tế là anh sẽ không bao giờ làm như thế thì sao? Đáng lẽ em nên tin tưởng anh cho dù mọi việc trông có vẻ như thế nào đi chăng nữa – em biết đủ rõ về anh rồi mà.”
“Vâng, anh nói đúng. Em xin lỗi. Em đã phán xét anh quá vội.”
“Đúng thế – nhưng, em biết đấy, Laura, anh chưa bao giờ phán xét vội vàng về em.”
“Điều đó càng làm em cảm thấy tồi tệ hơn.”
“Hàng đống thứ rác rưởi đã tống vào mặt em trong mấy tuần vừa rồi, nhưng anh biết tất cả chỉ là thế thôi – rác rưởi – và rằng Nick có lý do riêng của mình để làm những gì mà anh ấy đã làm. Và nếu như có ai đó hỏi anh liệu em có thể làm chồng em tổn thương nhiều đến mức anh ấy ngã quỵ thì anh hẳn sẽ trả lời là ‘tuyệt đối không’.” Tôi không nói gì cả. “Tất cả những cảm giác ‘tội lỗi’ rác rưởi mà phía báo chí cố ghim vào em – đặc biệt là bài báo bẩn thỉu đăng trên tờ Semaphore.”
“Vâng. Nhưng…”
“Sao cơ?” Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng đồng hồ điểm mốc bốn mươi lăm phút. Chẳng mấy chốc sẽ đến nửa đêm.
“Nhưng… thực ra thì, Tom… hắn ta đã đúng. Đúng là em có cảm thấy tội lỗi về chuyện Nick bỏ đi.”
“Vì sao?” Im lặng bao trùm. “Đó không phải lỗi của em. Em không có trách nhiệm cho những gì diễn ra trong đầu anh ấy.”
“Có thật thế không? Em nghĩ là có đấy.” Từ bên ngoài chúng tôi có thể nghe thấy tiếng còi xe cứu thương rền rĩ.
“Ý em là gì?”
Tôi khựng lại. “Có một chuyện đã xảy ra… một chuyện mà anh ấy không thể vượt qua.”
“Em không phải kể cho anh nghe đâu, Laura.”
“Em muốn kể anh nghe. Nhưng anh là người duy nhất em sẽ kể.” Tôi nhận ra rằng tôi chưa bao giờ kể cho Luke. “Bọn em gặp tai nạn xe hơi – vài ngày trước lễ Giáng sinh.”
“Ừ, anh có nhớ. Nick đã bị va nặng vào đầu. Sau đó em bảo rằng em nghĩ chuyện đó có thể đã dẫn đến những chuyện xảy ra với anh ấy.”
“Đúng là em có nói thế – nhưng em không tin như vậy, bởi vì em biết lý do thực sự. Em đã biết trong suốt ba năm qua. Đó là một chuyện mà em đã làm, hay đúng hơn là nói, mà anh ấy không thể chịu đựng nổi.”
“Em đã nói gì?” Tom hỏi.
Tôi có thể nghe thấy hơi thở của chính mình.
Anh đã giết con chúng ta…
“Em đã đưa ra một lời buộc tội tồi tệ…”
Anh đã giết con chúng ta…
“Em đã có thai…” Tôi giải thích. Thế rồi tôi kể cho Tom nghe những gì tôi đã nói với Nick.
“Em có thai ư?” Tom thì thào.
“Vâng. Vào mùa thu năm 2001.”
“Anh không biết gì cả.”
“Em không nói với anh – hay bất cứ ai khác – và dù sao thì anh cũng có quá nhiều những thứ khác trong đầu lúc đó – đó là khoảng thời gian vài tháng sau khi Gabriel sinh ra. Và nó cũng chưa có nhiều biểu hiện, hơn nữa em cũng rất ít nôn oẹ vào buổi sáng.”
“Vậy… có phải là…?” Anh khựng lại. “Có phải Nick muốn em… phá thai? Có phải thế không?”
“Ồ… không. Không, anh ấy sướng điên lên khi biết – cả hai bọn em cùng thế. Bọn em phát hiện ra vào cuối tháng Chín khi đang đi nghỉ ở Crete.” Tôi nhớ hình ảnh Nick, đang đứng trên ban công khách sạn, trong chiếc áo sơ mi lụa màu xanh dương với con cá vùng nhiệt đới, mặt anh sáng bừng lên vì vui sướng. “Nhưng rồi em có cảm giác hơi hoảng sợ trong tháng Mười, vì thế bọn em quyết định không nói cho ai biết cả – kể cả chị và em gái em – cho đến khi em được ít nhất là mười sáu tuần. Khi được mười bốn tuần, em đi siêu âm lần đầu, và tình hình ổn cả.” Tôi dừng lại, nhớ lại nhịp tim gấp gáp của đứa bé – giống như một con chim – khi bác sĩ ấn chiếc máy Doppler vào bụng tôi; thế rồi hình ảnh kỳ diệu của một hình hài bé xíu cựa quậy trong ổ tử cung, một bàn tay xinh xắn giơ lên, như thể để chào mừng.
“Vì thế bọn em quyết định sẽ báo với tất cả mọi người vào ngày đầu tiên của Năm Mới. Em đã lo lắng về chuyện báo cho Felicity, bởi vì chị ấy đã cố gắng đến tuyệt vọng để có con. Nhưng đó là thời điểm mà bọn em dự định sẽ báo cho mọi người biết.”
“Thế sau đó chuyện gì đã xảy ra…?” Tom thì thầm. Trong khi chúng tôi ngồi đó thì thào trong bóng tối, tôi cảm thấy như thể tôi đang trong phòng xưng tội, và Tom là cha cố.
“Thứ Bảy trước ngày lễ Giáng sinh, bọn em đã đến một bữa tiệc ở Sussex – đó là một bữa tiệc gây quỹ cho SudanEase, vì thế bọn em phải đi. Mặc dù em không thực sự muốn bởi vì em không cảm thấy khỏe cho lắm. Nhưng khi lái xe quay về, bọn em đã gặp tai nạn – bọn em đã trượt khỏi đường và lao vào một cái mương. Bọn em được đưa đến bệnh viện, em bảo với y tá là em đang có thai. Và họ nói rằng em sẽ ổn thôi, rằng em đừng lo lắng, bởi vì những đứa bé được bao bọc rất an toàn. Rồi khi em về nhà, em lục tìm trong một cuốn sách – Mong đợi điều gì khi bạn đang mang thai – và nó nói rằng phụ nữ có thể gặp tai nạn thực sự nghiêm trọng đến mức gãy xương, nhưng vẫn không bị mất đứa bé. Vì vậy em hẳn là một trường hợp vô cùng xui xẻo, bởi vì em không bị đau đớn nghiêm trọng lắm, nhưng hai ngày sau em bị sẩy thai.”
Đột nhiên tôi cảm thấy Tom chạm vào tay phải của tôi, thế rồi anh úp cả hai bàn tay anh lên đó, như thể tay tôi là một con chim bị thương vậy.
“Anh rất tiếc, Laura.” Anh thì thầm. “Và anh xin lỗi vì đã không biết chuyện đó.”
“Em bảo Nick nói với anh là em bị cảm – nhưng thực ra em ở trong bệnh viện. Bác sĩ nói với em đó là một bé gái.”
“Anh rất tiếc.” Tom lặp lại. “Anh hẳn là rất quay cuồng trong cảm giác khổ sở của riêng mình nên mới không nhận ra điều đó ở em, mặc dù giờ khi nghĩ về chuyện đó, anh có nhớ rằng khi đó trông em có vẻ buồn bã thế nào.”
“Em đã rất buồn. Nick và em đều quẫn trí cả. Và ba hay bốn ngày sau đó, bọn em có một cuộc cãi nhau tồi tệ. Anh ấy đã uống một ly rượu ở bữa tiệc nọ. Vì thế em bảo anh ấy để em sẽ lái xe về nhà, nhưng anh ấy cứ khăng khăng là anh ấy không sao, hơn nữa anh ấy biết em ghét lái xe trong bóng tối. Anh ấy vẫn còn tự chủ được tốt, nhưng em trở nên bị ám ảnh với cái ý nghĩ rằng nó đã ảnh hưởng đến óc phán đoán của anh ấy… và em đã nói điều kinh khủng đó. Rồi ngày hôm sau em xin lỗi anh ấy, và rằng em nói thế chỉ bởi vì em vẫn còn quá đau đớn, nhưng em không nghĩ rằng như thế là đủ. Bởi vì, mặc dù bề ngoài anh ấy có vẻ đương đầu được, nhưng mười ngày sau đó anh ấy đã bỏ đi – vào ngày 1 tháng Giêng.”
“Vào ngày mà bọn em dự định sẽ thông báo cho mọi người.”
“Đúng vậy. Và rõ ràng là anh ấy đã lên kế hoạch bỏ đi, bởi vì anh ấy đã rút năm nghìn bảng ra khỏi tài khoản mười ngày trước khi anh ấy ra đi. Thế nên đúng là em cảm thấy có trách nhiệm đối với chuyện Nick bỏ đi. Đúng là em đã ‘làm anh ấy tổn thương,’ ‘đối xử tệ với anh ấy’, đúng là em đã ‘đẩy anh ấy ra đi’. ‘Cảm giác ăn năn của tôi’ đúng là một tiêu đề chuẩn xác.”
“Ôi Laura… Nhưng điều đó có thể hiểu được… trong hoàn cảnh đó. Em đã ở trong tâm trạng tồi tệ…”
“Nhưng Nick còn có những chuyện khác xảy ra vào lúc đó – cái chết sáu tuần trước của bố anh ấy đã ảnh hưởng tồi tệ đến anh ấy – họ đã có một cuộc tranh cãi nảy lửa và vẫn chưa làm lành – vì thế anh ấy đã ở trong tâm trạng yếu đuối sẵn rồi. Nhưng phải cảm thấy rằng việc mất đứa bé có thể là lỗi của anh ấy và biết rằng em đổ lỗi cho anh ấy – và rằng có thể em sẽ luôn đổ lỗi cho anh ấy. Em cho rằng đó là điều mà anh ấy không thể chịu đựng được.”
“Có thể anh ấy cũng tự trách chính mình, Laura.”
“Có thể – vì thế anh ấy không cần cả em cũng nói ra điều đó. Nhưng đó là lý do vì sao anh ấy biến mất.” Tôi có thể nghe thấy Tom thở dài. “Đó là câu chuyện buồn của em.” Tôi nghĩ đến lời tiên đoán của Cynthia tối hôm nào, và tôi đã cảm thấy rối loạn như thế nào về chuyện đó.
Không chỉ có một người biến mất khỏi đời cô – mà là hai.
“Em thường nghĩ đến đứa bé – giờ nó đã gần ba tuổi rồi. Một cô bé nhỏ xíu trong chiếc váy màu hồng và đôi giày Startrite.” Chúng tôi nghe đồng hồ điểm mười hai giờ.
“Nhưng rời bỏ em như thế thật tồi tệ biết bao – cho dù anh ấy có khủng hoảng đến thế nào.”
“Phải – bởi vì đáng lẽ bọn em đã có thể vượt qua chuyện đó, và để lại nó sau lưng. Thử lại một lần nữa.”
“Nhưng anh ấy đã rời bỏ em…”
Tiếng chuông cuối cùng vang lên. Đã sang ngày mùng hai tháng Năm. Kỷ niệm ngày cưới của chúng tôi.
“Phải, anh ấy đã bỏ đi. Khi em cần anh ấy nhất.”