Bức Họa Chết Người

Chương 7



MỤ PHÙ THỦY THÂN THIỆN

Trước khi rời khỏi nhà sáng hôm sau, Tuppence cẩn thận nhìn một lần cuối cùng bức tranh treo trong phòng cô, không gắn quá nhiều chi tiết bảo đảm của bức tranh vào trong trí, mà chỉ ghi nhớ vị trí trong phong cảnh của nó. Lần này cô sẽ nhìn nó không phải từ cửa sổ một đoàn tàu mà từ con đường cái. Góc cận cảnh sẽ hoàn toàn khác. Ở đó có thể có nhiều cầu một vòm mái cong, nhiều kênh giống nhau không còn dùng nữa. Có lẽ những căn nhà trông giống ngôi nhà này ( nhưng Tuppence từ chối tin vào điều đó).

Bức tranh được kí tên, nhưng chữ kí của nghệ sĩ thì không đọc được. Có thể nói tất cả bắt đầu với chữ B.

Rời bức tranh quay đi, Tuppence kiểm tra lại đồ dùng cá nhân của mình: một bản đồ A. B. C. và hệ thống đường xe lửa liên hệ. Một trong những bản đồ quân vụ được tuyển chọn; những cái tên thăm dò từng khu vực – Medchester, Westleigh – chợ Basing- Middlesham – Inchwell. Chúng bao quanh khu tam giác ở giữa mà cô quyết định do thám. Với cô cô đem theo một cái túi ngủ nhỏ qua đêm từ khi cô sẽ có ba giờ lái xe trước khi đến khu vực điều tra, và sau đó, nghĩa là, cô kết luận, nhiều cuộc lái xe chậm dọc theo những con đường lộ và đường mòn trong xứ để tìm kiếm những con kênh có thể đúng.

Sau khi dừng xe lại Medchester uống cà phê và một bữa ăn nhẹ, cô tiếp tục lái về phía trước bên một con đường lộ loại hai nằm sát cạnh một đường rầy xe lửa, băng qua miền thôn dã trồng rừng với nhiều con suối.

Như hầu hết các miền quê ở nước Anh, đầy rẫy những bảng chỉ đường, mang những cái tên Tuppence chưa hề nghe, bề ngoài có vẻ khó mà dẫn đến cái nơi đang được đề cập đến. Thật vậy về phần này hình như có sự tinh xảo nào đó trong hệ thống đường bộ của nước Anh. Đường lộ quanh co tách rời khỏi con kênh, và khi bạn đầy hi vọng đi nhanh về phía nơi bạn nghĩ chắc là con kênh, bạn chỉ vẽ một khoảng trắng. Nếu bạn đi theo hướng khu vực trung tâm và vùng phụ cận Michedlen, bảng chỉ đường kế tiếp nơi bạn đến bắt bạn chọn lựa giữa hai con đường, một đến Pennington Sparrow, ngả kia đến Farlingford. Bạn chọn Farlingford trên thực tế tìm cách bắt đầu đến một chỗ như thế nhưng hầu như ngay lập tức bảng chỉ đường kế tiếp lại gởi bạn trở về Medchester, vì thế gần như bạn thụt lùi bước chân bạn. Trong thực tế Tuppence không bao giờ tìm ra khu vực phụ cận và trung tâm Michelden, trong một lúc lâu cô hoàn toàn không có khả năng tìm ra con kênh thất lạc. Nếu cô có bất cứ ý tưởng nào về ngôi làng mà cô đang tìm, những sự việc có thể dễ dàng hơn. Theo dấu những con kênh trên bản đồ chỉ là chơi trò xếp hình. Thỉnh thoảng cô đến chỗ đường rầy xe lửa điều ấy khiến cô vui lên rồi tiếp tục lòng đầy hi vọng lái nhanh về phía Đồi ong, Nam Winterton và Farrell St. Edmund. Farrell St. Edmund đã một lần có nhà ga, nhưng cách đây một thời gian nó đã bị bãi bỏ! Tuppence nghĩ, nếu chỉ có một con đường lộ vận hành sát con kênh , hay sát ven đường sắt, sẽ khiến việc tìm kiếm trở nên dễ dàng.

Ngày tiếp tục trôi qua lặng lẽ và Tuppence càng lùc càng rối trí. Thỉnh thoảng cô lái đến một nông trại kề sát bên một con kênh nhưng con đường dẫn đến nông trại cứ nhất mực không liên can gì đến con kênh mà chạy thẳng lên một ngọn đồi đến một chỗ tên là Westpenfold có một nhà thờ với một tháp vuông chẳng ích lợi gì cả.

Từ đó trong lúc phiền muộn đuổi theo một con lộ có dấu lún bánh xe dường như là con đường duy nhất ra khỏi Westpenfold trong ý thức về phương hướng của Tuppence( bây giờ cái ý thức đó càng lúc càng không thể tin cậy được nữa) dường như dẫn về hướng ngược lại cái hướng cô muốn đi, bất ngờ cô đến một chỗ nơi hai con đường chia nhánh phải và trái. Phía giữa còn một tấm bảng chỉ đường, hai cánh tay của cái bảng gãy rời.

– Đường nào? Tuppence hỏi. Ai biết? Ta không biết.

Cô rẽ vào con đường bên trái.

Con đường quanh co, uốn khúc sang trái rồi sang phải. Cuối cùng nó vòng ngắn quanh một khúc quẹo, con đường mở rộng ra leo lên một ngọn đồi, ló ra khỏi những cánh rừng rồi xuôi lần xuống vùng thôn dã thoáng mát. Đã vượt lên được đỉnh dốc rồi nó lại đi xuống con dốc. Từ nơi không xa lắm một âm thanh não lòng vang lên –

– Âm vang như một Chuyến tàu, Tuppence nói với một hi vọng bất ngờ.

Đó là một đoàn tàu – rồi bên dưới cô là đường rầy xe lửa và một đoàn tàu chở hàng đang vừa chạy vừa phát ra những tiếng còi hụ não lòng vừa nhả ra những làn khói. Phía xa là con kênh và bên kia con kênh là ngôi nhà mà Tuppence nhận ra, băng qua con kênh là cây cầu một mái vòm cung, màu gạch hồng. Đường lộ chìm bên dưới đường sắt, nhô lên, đi về hướng chiếc cầu. Tuppence lái rất chậm bên chiếc cầu hẹp. Xa kia con đường tiếp tục chạy dài với ngôi nhà bên cánh phải. Tuppence vừa lái vừa tìm đường vào. Hình như không có lối vào. Một bức tường cao vô tư che khuất nó khỏi con đường.

Bây giờ căn nhà bên tay phải cô. Cô dừng xe lại đi bộ trở lại cầu và từ đó cô quan sát được những gì cô có thể nhìn thấy ở ngôi nhà.

Hầu hết những cửa sổ cao đều có những cánh cửa màu xanh lục đóng kín. Ngôi nhà có một vẻ rất yên tĩnh và trống trải. Dưới ánh sáng mặt trời lặn trông thái bình và dễ chịu. Không có chi gợi ý có người ở đó. Cô trở lại xe lái xa hơn một chút. Bức tường, một bức tường cao tầm thước, chạy dọc bên phải cô. Phía tay trái con đường chỉ là một hàng rào chạy thẳng ra những cánh đồng.

Ngay sau đó cô lái đến một cánh cửa sắt rèn. Cô đậu xe bên lề đường, bước ra nhìn qua cánh cửa sắt. Đứng nhón gót chân cô có thể xem xét kĩ lưỡng. Cái mà cô nhìn vào là một khu vườn. Bây giờ chỗ đó chắc chắn không phải là một nông trại, mặc dù một lần nó đã là một nông trại. Tin chắc khu vườn hướng thẳng ra cánh đồng đằng xa. Khu vườn được trồng trọt và chăm sóc. Nó không được ngăn nắp lắm nhưng có vẻ như một người nào đó đang cố gắng giữ cho khu vườn được sạch sẽ ngăn nắp mà không thành công lắm.

Từ cánh cổng sắt một lối đi hẹp hình vòng cung xuyên qua khu vườn vòng quanh tòa nhà. Tin chắc đây là mặt tiền nhà, mặc dù trông nó không giống như mặt tiền. Thật khó nhận thấy mặc dù vững chắc – một cánh cửa sau. Từ phía này ngôi nhà hoàn toàn khác. Khởi đầu, nó không hoang vắng. Người ta sống ở đây. Cửa sổ mở, những màn cửa rung rinh quanh chúng, một xô rác trước cánh cửa lớn. Cuối đằng xa khu vườn Tuppence có thể thấy một người đàn ông to béo đang đào, một người đàn ông có tuổi cao lớn ông ta chậm rãi kiên trì đào bới. Chắc chắn nhìn từ phía này ngôi nhà không quyến rũ, không nghệ sĩ nào muốn vẽ nó. Nó chỉ là một ngôi nhà có người ở. Tuppence tự hỏi. Cô lưỡng lự. Ta có nên tiếp tục đi và quên ngôi nhà? không, cô khó mà làm được điều ấy, sau tất cả những rắc rối cô gặp phải. Mấy giờ rồi? Cô nhìn đồng hồ nhưng đồng hồ tay cô đứng. Âm thanh một cánh cửa mở ra bên trong. Cô chăm chú nhìn qua cánh cổng lần nữa.

Cánh cửa nhà mở và một phụ nữ bước ra. Bà ta đặt một bình sữa xuống rồi đứng thắng người lên, liếc nhìn về phía cổng. Bà thấy Tuppence và lưỡng lự một phút, rồi dường như đã quyết định, người đàn bà bước xuống lối đi đi về phía cổng. ‘sao thế, Tuppence lẩm bẩm, sao nhỉ, đó là một mụ phù thuỷ thân thiện!’

Đó là một người đàn bà chừng năm mươi tuổi. Bà ta có mái tóc dài rối bời vì gió, bay tung phía sau. Nhắc Tuppence mơ hồ nhớ đến một bức tranh( của Nevínon?) về một mụ phù thuỷ trẻ trên cán chổi. Có lẽ điều đó giải thích vì sao thuật ngữ phù thuỷ đến trong trí cô. Nhưng người đàn bà này không có gì trẻ đẹp. Bà ta trạc trung niên, một nét mặt có vết nhăn, ăn mặc khá cẩu thả. Bà ta đội một cái mũ hình tháp chuông mũi và cằm thì tới gần nhau. Như đã nói bà ta có thể ác nhưng bà ta không có vẻ gì độc ác. Bà ta dường như có một thiện tâm toả sáng vô hạn. ‘Phải, Tuppence thầm nghĩ, ‘chính xác bà Giống như là một mụ phù thủy, nhưng bà là một phù thuỷ Thân thiện. Tôi nghĩ bà là điều mà người ta thường gọi một” phù thủy trắng”.

Người đàn bà ngập ngừng bước đến cánh cổng và nói. Giọng bà ta vui vẻ với một âm thanh thôn dã yếu ớt.

– Có phải cô đang tìm kiếm cái gì?

– Tôi xin lỗi, Tuppence nói, hẳn bà nghĩ tôi rất thô lỗ khi nhìn vào vườn của bà bằng cách này, nhưng – nhưng tôi đang tự hỏi về căn nhà này.

– Cô có vui lòng vào và nhìn quanh vườn không? Mụ phù thuỷ thân mật nói.

– Tốt – tốt – cám ơn bà nhưng tôi không dám làm phiền.

– Không có chi. Tôi không có chi để làm cả. Buổi chiều đẹp chứ nhỉ?

– Vâng, đúng thế.

– Tôi nghĩ có lẽ cô lạc đường. Bà phù thủy thân thiện nói. Đôi khi người ta bị vậy.

– Tôi chỉ nghĩ đây là một ngôi nhà rất quyến rũ khi tôi đi xuống ngọn đồi phia bên kia chiếc cầu.

– Đó là phía đẹp nhất. Thỉnh thoảng các nghệ sĩ đến vẽ phác hoạ. Hoặc họ quen với chuyện đó – một lần thôi.

– Vâng. Tôi nghĩ họ sẽ vẽ. Tôi tin là tôi – tôi đã nhìn thấy một bức tranh – tại một cuộc triển lãm nào đó, cô vội vã thêm vào. Một số căn nhà rất giống ngôi nhà này. Có lẽ Là ngôi nhà này đây.

– Có thể. Khôi hài thật, cô biết chứ, các nghệ sĩ đến và vẽ tranh. Rồi các nghệ sĩ khác dường như cũng đến. Vẫn y như thế khi hàng năm họ đều có cuộc triển lãm tranh địa phương. Những nghệ sĩ hình như chọn cùng một địa điểm. Tôi không hiểu vì sao. Cô không hiểu vì sao. Cô biết không, hoặc là một đồng cỏ và suối nhỏ, hay một cây sồi đặc biệt, hay một bụi liễu, hay cùng quang cảnh nhà thờ Normand. Năm sáu tranh khác nhau vẽ cùng một cảnh vật, đa số rất xấu, tôi nghĩ thế. Nhưng tôi không hiểu chi về nghệ thuật cả. Xin mời vào.

– .Bà tử tế lắm. Tuppence nói. Bà có một khu vườn rất đẹp. Cô thêm vào.

– Không tệ lắm. Chúng tôi trồng ít rau, hoa và những món khác. Nhưng hiện nay ông ấy không thể lao động nhiều và tôi không có thì giờ cho việc này việc khác.

– Tôi thấy ngôi nhà này một lần từ xe lửa. Xe lửa đi chậm lại tôi thấy ngôi nhà này và tự hỏi có khi nào mình gặp lại nó không. Cách đây khá lâu rồi.

– Bây giờ bất ngờ cô lại đi xuống ngọn đồi bằng xe hơi và ngôi nhà đó là đây. Không thể tin được, những sự việc lại xảy ra như thế, phải không nào?

Tạ ơn Chúa. Người đàn bà này dễ nói chuyện cực kì. Người ta khó mà tưởng tượng ra cái gì đó để giải thích. Hấu như người ta có thể chỉ nói đúng những điều vừa nảy ra trong đầu.

– Cô thích căn nhà này không? Mụ phù thủy thân mật nói. Tôi có thể hiểu là cô có quan tâm. Đó là một ngôi nhà hoàn toàn cổ, cô biết đấy. Tôi muốn nói, kiểu thời cuối Gerorgian, người ta nói nó vừa được gia cố thêm thôi. Dí nhiên, chúng tôi chỉ được ở nửa căn nhà thôi.

– Tôi hiểu rồi, nhà được chia hai, phải không?

– Thật ra đây là phía sau. Mặt trước là phía kia, phía mà cô thấy tứ cái cầu. Cái lối chia nhà làm hai thật khó tin. Tôi nghĩ vậy. Tôi cho là chia nhà bằng cách khác thì dễ chịu hơn. Bên phải bên trái, vậy đó. Không sau hay trước. Tất cả phần này thật ra là phía sau.

– Bà ở đây bao lâu rồi?

– Ba năm. Sau khi chồng nghỉ hưu chúng tôi cần một chỗ nhỏ thôi ở nơi nào mà chúng tôi được yên tĩnh trong xứ. Đôi khi giá rẻ. Chỗ này rẻ bởi vì sự hiu quạnh. Cô không ở gần làng hay nơi nào khác.

– Tôi có thấy một nhà thờ chóp nhọn đằng xa.

– Đó là Sutton Chancellor. Cách đây hai dặm rưỡi. Dĩ nhiên chúng tôi ở trong xứ đạo, nhưng không có bất cứ ngôi nhà nào cho đến khi cô đến làng. Đấy cũng là một ngôi làng nhỏ. Cô sẽ uống một tách trà chứ? Mụ phù thuỷ thân thiện nói. Tôi chỉ vừa mới đặt ấm nước chưa quá hai phút thì nhìn ra và thấy cô. Bà đưa hai tay lên miệng hét lớn.” Armos”, bà gào,”Armos”.

Từ đằng xa người đàn ông mập mạp quay đầu lại.

– Trà trong mười phút nữa. Bà nói.

Ông ta đưa bàn tay lên tỏ ý hiểu dấu hiệu. Bà quay lại, mở cánh cửa lớn và nhắc Tuppence bước vào.

– Tên tôi là Perry. Giọng nói thân thiện. Perry.

– Còn tôi Beresford. Tuppence nói. Bà Beresford.

– Mời vào, bà Beresford, cứ nhìn quanh cho đã.

Tuppence suy nghĩ một chút. Cô nghĩ” Đúng trong một phút mình cảm thấy giống Hansel và Gretel. Mụ phù thuỷ yêu cầu bạn vô nhà mụ. Có lẽ là một ngôi nhà bằng bánh ga tô có mùi gừng… chắc là thế.”

Rồi cô nhìn Alice Perry lần nữa và nghĩ đây không phải là nhà của mụ phù thủy của Hansel và Gretel. Đây đúng là một người phụ nữ hoàn toàn bình thường.

Không, không hoàn toàn bình thường lắm. Đối với cô bà có một vẻ thân thiện hơi hoang dã đến kì. ‘có lẽ bà ấy có khả năng mê hoặc,’ Tuppence nghĩ,’ nhưng mình chắc chúng sẽ là những mê hoặc tốt.’ Cô cúi đầu thấp xuống một chút và bước lên bậc cửa vào nhà mụ phù thủy.

Bên trong hơi tối. Những hành lang thì nhỏ. Bà Perry dẫn cô đi xuyên qua cái bếp vào phòng khách bên kia rõ ràng là phòng khách của gia đình. Không có chi gây hứng khởi về căn nhà này cả. Tuppence nghĩ, có lẽ đó là phần gia cố thêm kiểu thời cuối Victorian cho phần chính. Bề ngang hẹp. Dường như gồm có một hành lang nằm ngang, hơi tối, đáp ứng nhu cầu một dãy phòng. Cô thầm nghĩ chắc chắn việc chia đôi căn nhà là một kiểu khá kì dị, khác thường.

– Mời ngồi và tôi sẽ mang trà vào. Bà Perry nói.

– Để tôi giúp bà.

– Đừng ngại, không qua 1 phút đâu. Tất cả sẵn sàng trên khay rồi.

Một tiếng còi rít lên từ bếp. Rõ ràng thời gian tĩnh của ấm nước đã đến độ cuối. Bà Perry ra ngoài và một hai phút sau trở lại với khay trà, một dĩa bánh xcôn, một hũ mứt trái cây ba tách và bốn dĩa trà.

– Tôi cho là cô bị thất vọng nên mới vô nhà.

Đó là một nhận xét thông minh rất gần sự thật.

– Ồ không. Tuppence đáp.

– Nếu tôi là cô thì tôi cũng thế. Chúng không cân xứng, phải không nào? Tôi muốn nói phía trước và sau của toà nhà không cân đối. Nhưng đây là một chỗ ở dễ chịu. Không quá nhiều phòng, không nhiều ánh sáng nhưng nó tạo ra một giá khác biệt rất lớn.

– Ai phân chia ngôi nhà này và tại sao?

– Tôi tin cách đây khá lâu rồi. Tôi cho là bất cứ ai là chủ cũng nghĩ ngôi nhà quá lớn và quá bất tiện. Chỉ cần một nơi nghỉ cuối tuần hay một chỗ nào đó đại loại. Vì vậy họ giữ lại những căn phòng đẹp, phòng ăn phòng vẽ và làm một cái bếp bên ngoài phòng đọc sách, hai phòng ngủ và phòng tắm ở trên lầu, rồi xây tường bít lại và chừa lại những cái bếp những căn phòng nhỏ để rửa bát đĩa đồ đạc, sửa lại một chút.

– Ai ở trong những phòng kia? Một kẻ vừa mới xuống vào dịp nghỉ cuối tuần?

– Bây giờ không ai sống ở đó cả. Bà Perry đáp. Một cái bánh xcôn nữa nhé?

– Cám ơn.

– Trong hai năm qua it ra cũng không ai đến đây. Bây giờ tôi không biết nó thuộc về ai nữa.

– Lần đầu tiên bà đến khi nào?

– Có một quý cô trẻ thường xuống đây. Người ta nói cô ấy là nghệ sĩ. Ít ra đó là những gì tôi nghe được. Nhưng thật sự chúng tôi không bao giờ thấy cô ta. Thỉnh thoảng thấy thoáng qua. Cô thường đến lúc đã muộn vào mỗi tối thứ bảy sau sô diễn. Chiều chủ nhật thường đi xa.

– Một phụ nữ hoàn toàn bí mật. Tuppence nói giọng khích lệ.

– Cô hiểu đúng cách tôi thường nghĩ về cô ấy. Tôi hay dựng chuyện về cô ta trong đầu. Đôi khi tôi nghĩ cô ta là Greta Grabo. Cô biết không, cách Cô ta đi quanh luôn đeo kính đen còn mũ kéo xuống tận mặt. Ơn Chúa, tôi có kiếm cho mình một cái mũ chóp nhọn.

Bà ta hất cái mũ đội đầu ra rồi cười.

– Cái này cho một vở kịch chúng tôi sắp diễn tại phòng giáo xứ Sutton Chancellor. Một loại truyện thần tiên dành cho hầu hết trẻ em. Tôi đang đóng vai phù thủy. Bà thêm.

– Ô, Tuppence nói, rồi nhẹ nhàng lùi lại, sau đó nhanh chóng thêm, vui nhỉ.

– Phải, vui thật, chứ không à? Chính xác dành cho phù thủy, phải không nào? Bà ta cười vỗ vào má. Tôi cố kiếm một khuôn mặt hợp với vai. Hy vọng sẽ không nhét ý kiến vào trong đầu người khác. Họ sẽ nghĩ rằng tôi có con mắt qủy.

– Tôi không cho họ nghĩ như vậy về bà. Tôi tin bà sẽ là một phù thủy được tin cậy.

– Tôi vui cô đã nghĩ thế. Như tôi đang nói, nữ nghệ sĩ này – bây giờ tôi không nhớ tên cô ta – tôi nghĩ tên cô là Marchement, hay có thể một cái tên khác – cô sẽ không tin những sự kiện tôi thường dựng lên về cô ta. Thật sự, tôi khó mà thấy hay nói chuyện với cô ta. Đôi khi tôi nghĩ chính xác cô ta nhút nhát kinh khủng và loạn thần kinh. Những phóng viên báo chí xuống đây đi theo cô với những chuyện như thế, nhưng cô ta không bao gìờ gặp họ. Những lúc khác tôi thường nghĩ – cô sẽ bảo tôi ngu – tôi thường nghĩ những chuyện hung hiểm về cô ấy – cô biết đấy, cô ta sợ bị Nhận Diện. Có lẽ cảnh sát đang tìm cô. Có lẽ cô là một tội phạm nào đó. Thỉnh thoảng nó kích động, tạo thành những chuyện trong đầu. Đặc biệt khi cô không gặp nhiều người.

– Không có người nào từng xuống đây với cô ấy hay sao?

– Tôi không chắc. Dĩ nhiên những bức vách ngăn họ dựng lên khi chia đôi căn nhà rất mỏng, thỉnh thoảng người ta nghe những giọng nói và những sự kiện như vậy. Tôi nghĩ thỉnh thoảng vào dịp nghỉ cuối tuần cô ta đưa xuống đây một kẻ nào đó. Bà ta gật đầu. Một người đàn ông. Điều này giải thích vì sao họ cần một nơi yên tĩnh như thế này.

– Một người đàn ông có vợ. Tuppence nói, làm ra vẻ giả vờ quan tâm.

– Phải, một người đàn ông có vợ, phải không?

– Có lẽ đó là người chồng đến với cô ta. Ông ta thuê chỗ này trong vùng quê bởi vì ông ta cần giết cô ta và có lẽ ông ta chôn cô trong vườn.

– Trời ơi! Cô có một tưởng tượng quá lớn. Tôi chưa bao giờ nghĩ như thế.

– Tôi giả sử có Ai đó phải hiểu rất rõ về cô ấy. Tôi muốn nói những đại lí nhà. Những người như vậy.

– Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng tôi thích mình đừng biết thì hơn nếu cô hiểu những gì tôi muốn nói.

– Vâng. Tuppence đáp, tôi hiểu chứ.

– Ngôi nhà này có một bầu khí quyển, cô biết không. Tôi muốn nói có một cảm tưởng trong đó, một cảm tưởng rằng có một cái gì đó đã xảy ra.

– Cô ta có ai đến dọn dẹp nhà hay làm cái gì như thế?

– Khó kiếm người ở đây lắm. Gần đây có ai đâu.

Cửa ngoài bật mở. Người đàn ông to lớn vừa đào đất trong vườn bước vào. Ông ta đến chỗ rửa bát vặn vòi nước, rõ ràng rửa tay. Rồi đi qua phòng khách.

– Đây là chồng tôi. Bà Perry giới thiệu. Amos. Chúng ta có một người khách, Amos. Đây là bà Beresford.

– Ông có khỏe không? Tuppence nói.

Amos Perry là một người có tướng đi cà nhắc, cao. Ông ta to lớn và đầy quyền lực hơn Tuppence hiểu. Mặc dù có tướng đi cà nhắc và bước rất chậm, lão là một người đàn ông to lớn vai u thịt bắp. Lão nói, ‘vui lòng được gặp bà, bà Beresford.’

Giọng lão vui và lão ta cười, nhưng Tuppence trong một thoáng cô tự hỏi lão có thật sự là cái điều cô gọi là ‘lành mạnh’ không. Có một tính chất phác đáng ngạc nhiên trong cặp mắt và cô cũng tự hỏi bà Perry có cần một chỗ yên tĩnh để sống bởi sự thiếu năng lực tinh thần hiển nhiên của chồng mình không.

– Ông ấy yêu vườn lắm. Bà Perry nói.

Do việc lão đi vào cuộc đối thoại lắng xuống. Bà Perry nói gần hết nhưng cá tính của bà dường như có thay đổi. Bà trò chuyện với tính nhút nhát hơn và đặc biệt chú ý đến chồng. Tuppence nghĩ, để khuyến khích ông, trong một chừng mức nào đó mà một người mẹ có thể bơm cho một đứa trẻ nhút nhát có thể nói chuyện, trình diễn mặt tốt nhất của mình ra trước một người khách, mà vì hơi nhút nhát có lẽ ông ta không đủ khả năng. Khi cô uống trà xong, Tuppence đứng lên. Cô nói’ Tôi phải đi. Cám ơn, bà Perry, rất cám ơn lòng hiếu khách của bà.’

– Bà sẽ xem vườn trước khi bà đi chứ. Ông Perry đứng dậy. Nào, đi thôi. Tôi sẽ chỉ cho bà thấy.

Cô đi với lão ra ngoài và lão dẫn cô đến cái góc đằng xa lão đang đào.

– Những cây hoa này có đẹp không? Đây có một số hoa hồng lỗi thời – xem cái này, màu đỏ và trắng có sọc.

– Commandant Bearepaire. Tuppence nói.

– Chúng tôi gọi nó là’ York và Lancaster’. Chiến tranh giữa các hoa hồng. Mùi ngọt, hả?

– Mùi thơm tuyệt vời.

– Thơm hơn chúng là Hybrid Teas kiểu mới.

Trong một chừng mực nào đó khu vườn hơi không tương xứng. Những hạt giống kiểm tra thiếu hoàn hảo, còn hoa được cột cẩn thận kiểu nghệ sĩ.

– Những màu sáng, lão Perry nói. Tôi thích những màu sáng. Chúng tôi thường đem người tới coi vườn, vui mừng là cô đã đến.

– Cám ơn ông rất nhiều. Tôi nghĩ vườn và nhà ông thật sự rất dẹp.

– Cô phải xem phía kia nữa.

– Nó để vậy hay để bán? Vợ ông hỏi. Bây giờ không ai ở gần đây cả.

– Chúng tôi không biết. Chúng tôi không thấy ai, không có biển treo và không ai từng đến thăm bên đó.

– Tôi nghĩ, đó sẽ là một ngôi nhà đẹp để ở.

– Cô cần một căn nhà à?

– Phải, Tuppence đáp, quyết định nhanh. Vâng, thật sự chúng tôi đang tìm quanh trong xứ một chỗ nhỏ, dành cho khi chồng tôi về hưu. Có lẽ năm tới, nhưng tôi thích tìm quanh đây khi còn có thời gian.

– Nếu cô thích yên thì ở đây yên tĩnh rồi.

– Tôi cho là vậy, tôi có thể hỏi đại lí nhà địa phương. Có phải đó là cách ông kiếm nhà?

– Đầu tiên chúng tôi đọc thông báo trên báo. Rồi mới đến đại lí nhà.

– Chỗ ấy ở đâu – trong Sutton Chacellor? Đó là làng ông, phải không?

– Sutton Chancellor? Không. Những văn phòng đại lí đặt ở chợ Basing. Russell và Thompson, đó là cái tên. Cô có thể đi gặp họ mà hỏi.

– Vâng, Tuppence đáp, tôi sẽ làm. Từ đây đến chợ Basing bao xa?

– Mất hai dặm đến chợ Basing và bảy dặm đến Sutton Chancellor. Có một con lộ chính từ Sutton Chancellor còn quanh đây toàn là đường mòn.

– Tôi hiểu. Xin tạm biệt, ông Perry, cám ơn rất nhiều đã cho tôi xem vườn ông.

– Đợi một chút. Lão ta cúi xuống, cắt một cái hoa khổng lồ và nắm ve áo Tuppence, lão nhét qua lỗ nút áo cô. Đó, của cô đó. Trông đẹp quá.

Trong một phút Tuppence cảm thấy nỗi kinh hoàng bất ngờ. Người đàn ông cao lớn, đi cà nhắc, tánh nết tốt bụng này làm cô sợ chết khiếp. Lão ta nhìn cô cười. Cười khá là hoang dã, gần như đểu cáng. ‘Trông cô rất đẹp,’ lão lại nói.’ Đẹp.’

Tuppence nghĩ.” Ta vui ta không còn là một thiếu nữ… ta không nghĩ ta thích lão cài một bông hoa lên áo ta.” Một lần nữa cô nói lời tạm biệt rồi vội vã quay gót.

Cánh cửa ngôi nhà chợt mở và Tuppence đi vào tạm biệt bà Perry. Bà Perry ở trong bếp, lau chùi đồ trà còn Tuppence hầu như tự động kéo một tấm vải ra khỏi lò nướng bắt đầu lau khô.

– Cám ơn nhiều. Cô nói. Bà và chồng bà. Bà quá tử tế và hiếu khách đối với tôi – Cái gì kia?

Từ nơi bức tường nhà bếp, hay đúng ra phía sau bức tường chỗ trước kia một dãy bếp lò cũ đứng, vọng ra một tiếng thét lớn đồng lúc với tiếng kêu quang quác và tiếng cào rạch.

– Con quạ cổ xám đấy. Nó rơi xuống từ ống khói căn nhà bên kia. Lần nào trong năm nó cũng làm thế. Tuần qua nó rơi xuống ống khói nhà tôi. Cô hiểu không, chúng làm tổ trong ống khói.

– Còn cái gì trong nhà kia vậy?

– Phải, lại nó lần nữa.

Một lần nữa tiếng quang quác và tiếng la của con chim lâm cảnh khốn cùng đến tai họ. Bà Perry nói. Không có ai trong ngôi nhà trống để chịu khó bỏ công ra, cô hiểu chứ. Những ống khói phải được chùi dọn và những thứ tương tự.

Tiếng kêu quang quác tiếng cào cấu vẫn tiếp tục.

– Con chim khốn khổ.

– Tôi biết. Tôi không thể đem nó lên nữa đâu.

– Bà muốn nói nó sẽ chết ở đó à?

– Như tôi nói nó bay xuống ống khói của chúng tôi. Hai con, thật thế. Một con chim non. Chúng tôi lôi nó lên và nó bay được, nó ổn rồi. Con kia đã chết.

Tiếng kêu quang quác và cuộc xô đẩy cuồng dại vẫn tiếp tục.

Ông Perry qua cánh cửa đi vào. Chuyện gì thế? Ông nói, nhìn người nọ đến người kia.

– Có một con chim, Amos. Nó hẳn kẹt trong ống khói nhà bên kia. Nghe không?

– Ê, nó đến từ tổ con quạ cổ xám mà.

– Tôi ước chúng ta vào đó được.

– A, bà không thể làm được gì sất. Chúng sẽ chết vì sợ, nếu không có chi khác.

– Nó sẽ bốc mùi.

– Ơ đây cô không nên ngửi bất cứ cái gì. Cô mềm yếu lắm. Ông ta tiếp tục nhìn người nọ đến người kia,” giống như tất cả bọn đàn bà “, nếu bà muốn tôi sẽ lấy nó ra.

– Sao, có một cánh cửa sổ mở à?

– Có thể vào qua cửa lớn.

– Cửa nào?

– Trong sân bên ngoài này. Chìa khóa treo ở đó.

Lão ta bước ra đi dọc đến cuối vườn, mở một cánh cửa lớn ở đó. Thật ra đó là một nhà kho ươm cây giống, nhưng một cánh cửa lớn lại dẫn vào phía nửa ngôi nhà kia và gần cửa lớn của kho ươm cây giống sáu bảy chiếc chìa khóa rỉ treo trên một cái đinh.

– Đây là một cái chìa khớp. Lão Perry nói.

Lão lấy cái chìa xuống tra vào ổ, sau khi nhiều lần phỉnh phờ gây sức ép và cưỡng bức, chìa khoả rỉ sét trong ổ.

– Trước tôi đã vào đây một lần, lão nói, khi tôi nghe tiếng nước chảy. Một người nào đó đã quên khóa vòi nước cho khớp.

Lão đi vào và hai người phụ nữ theo sau. Cánh cửa dẫn vào một phòng nhỏ gồm những chậu bông khác nhau trên những cái kệ và một chậu rửa chén có một vòi nước.

– Một phòng để hoa, tôi không ngạc nhiên mà. Nơi người ta thường chuẩn bị bông. Xem nào? Có nhiều chậu ở đây.

Có một cánh cửa mở ra ngoài phòng để hoa. Cửa này không khoá. Lão mở cửa đi qua. Tuppence nghĩ, giống như đi vào một thế giới khác. Đường hành lang phía ngoài được phủ một đống thảm. Một lối đi nhỏ dọc theo có một cánh cửa lớn khép hờ và từ đó vọng đến tiếng đập cánh của con chim khốn khổ. Perry xô cửa mở ra và vợ lão cùng Tuppence bước vào.

Những cửa sổ khép chặt nhưng có một phía một cánh cửa chớp đang treo lủng lẳng và ánh sáng lọt vào. Mặc dù căn phòng mờ tối, vẫn có một tấm thảm tuyệt đẹp trên sàn nhà, màu xanh lục đậm. Có một cái kệ dựa vào tường nhưng không có bàn ghế. Đồ đạc chắc chắn đã dời đi, những bức màn và thảm để lại như những đồ đạc cố định trao cho người thuê tiếp.

Bà Perry đi về phía lò sưởi. Con chim nằm trong vỉ chắn lò đang vùng vẫy thốt ra những tiếng kêu quang quác lớn trong cảnh túng cùng. Bà ta cúi xuống, nhặt con chim lên và nói. Mở cửa sổ ra nếu ông có thể, Amos.

Amos bước qua, kéo cửa chớp sang bên, mở khoá phía bên kia rồi đẩy mạnh chốt cửa. Ông bực bội nâng tấm cửa thấp có khung trợt lên. Ngay khi cửa mở ông Perry chồm ra ngoài thả con quạ. Nó lắc lư trên cỏ, nhảy nhanh vài bước.

– Tốt hơn giết nó đi, nó bị thương rồi. Perry nói.

– Để nó đó một chút, bà vợ nói. Cô không bao giờ hiểu. Loài chim hồi phục rất nhanh. Sự sợ hãi khiến chúng có vẻ như bại liệt đó thôi.

Quả thế, vài phút sau với một sức chiến đấu cuối cùng, con quạ mỏ khoang đập cánh bay đi.

– Tôi chỉ hi vọng, Alice Perry nói, nó không xuống ống khói nữa. Những sinh vật mâu thuẫn, loài chim ấy. Không hiểu chuyện ấy có gì hay cho chúng. Bay vào một căn phòng, không bao giờ chúng tự bay ra được. Ô, bà ta thêm vào, thật là hỗn độn.

Bà, Tuppence và ông Perry ba người chăm chăm nhìn vào tấm vỉ chắn lò. Từ ống khói là một đống mồ hóng, rác rưởi kì lạ và những viên gạch bể rớt xuống. Rõ ràng cách đây ít lâu nó được sửa chữa tồi.

– Một ai đó đã đến sống ở đây. Bà Perry nhìn quanh.

– Một ai đó phải chăm sóc ngôi nhà, Tuppence đồng ý với bà. Một kĩ sư xây dựng phải xem xét và làm cái gì đó hoặc toàn bộ ngôi nhà sẽ sụp đổ.

Có lẽ nước đang chảy qua mái nhà vào đỉnh những căn phòng. Phải, nhìn cái trần nhà kìa, nước xuyên qua đó.

– Thật đáng xấu hổ. Tuppence nói. Làm đổ sụp một căn nhà đẹp – thật sự là một căn phòng đẹp, phải không?

Cô và bà Perry cùng nhìn nhau thông cảm. Xây vào khoảng 1970 nó có tất cả sự sang trọng của một ngôi nhà thời đó. Nó có nguyên một mẫu những lá liễu in trên giấy dán tường không màu.

– Nó sụp đổ bây giờ đấy.

Tuppence cời đống đổ nát vào cái rá lò.

– Người ta nên quét nhà mới phải.

– Bây giờ bà muốn gì khi làm phiền mình với một ngôi nhà không thuộc về bà? Chồng bà nói. Để nó yên, thưa bà. Sáng ngày mai nó sẽ lại trong tình trạng như cũ cho coi.

Với một ngón chân Tuppence chuyển động nhẹ nhàng những viên gạch sang bên.

– Ô, cô kêu lên một tiếng nhờm tởm.

Có hai con chim chết nằm trong lò sưởi. Bằng vẻ bên ngoài của chúng thì chúng đã chết khá lâu.

– Cái gì đây? Tuppence hỏi.

Cô dùng đầu ngón chân khều một vật gì đó nằm ẩn trong đống rác. Rồi cô cúi xuống và nhặt lên.

– Đừng đụng vào con chim chết ấy.

– Nó không phải là một con chim. Một cái gì khác ắt phải rơi xuống ống khói. Tôi chưa bao giờ, cô thêm vào, nhìn chăm chăm vật ấy. Đó là một con búp bê. Con búp bê trẻ em.

Họ nhìn xuống. Tả tơi, rách rưới, quần áo là những mảnh vụn, đầu nó thõng xuống vai, nguyên thủy hẳn là búp bê của một đứa trẻ. Một con mắt thủy tinh rơi ra ngoài. Tuppence vẫn còn giữ nó.

– Tôi tự hỏi, cô nói, tôi tự hỏi làm sao con búp bê lại lên trên một ống khói được chứ. Phi thường lạ lùng quá.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.