Bức Họa Chết Người

Chương 14: Buổi chiều tại nhà mục sư



Kim cương! Tuppence thở gấp.

Nhìn từ anh đến những hòn sỏi còn giữ trong tay mình, cô nói.

– Những viên sỏi trông bụi bặm này, chúng là Kim Cương sao?

Tommy gật đầu.

– Bây giờ bắt đầu sáng tỏ rồi, em biết đấy, Tuppence. Nó cột chặt vào nhau. Ngôi Nhà Con Kênh. Bức tranh. Em đợi cho đến khi Ivor Smith nghe được về con búp bê. Hắn có một bó hoa chờ em rồi đấy, Tuppence –

– Cho cái gì?

– Vì đã giúp vây bắt một băng nhóm tội phạm lớn!

– Anh và lão Ivor Smith của anh! Em giả thiết ấy là nới anh đã ở suốt tuần qua, bỏ rơi em trong những ngày dưỡng bịnh cuối cùng trong bệnh viện đáng sợ này – ngay khi em cần cuộc nói chuyện thông minh và nhiều cái làm vui lên.

– Mỗi tối anh đều đến vào giờ thăm viếng rồi.

– Anh không nói nhiều với em.

– Anh được cảnh báo từ nữ y tá trửơng không được kích động em. Nhưng tự Ivor sẽ đến đây vào ngày mốt, và chúng ta sẽ có một cuộc hội kiến công khai tại nhà mục sư.

– Ai sẽ đến?

– Bà Boscowan, một trong những chủ đất lớn nhất ở địa phương, cô Nellie Bligh bạn em, cha cố, tất nhiên rồi, em và anh –

– Và ông Ivor Smith – tên thật của ông ta là gì?

– Theo chỗ anh hiểu, đó là Ivor Smith.

– Anh luôn luôn thận trọng – Tuppence bất ngờ mỉm cười.

– Cái gì làm em vui?

– Em vừa mới khám phá ra em thích thấy anh và Albert khám phá những ngăn kéo bí mật trong bàn giấy của dì Ada.

– Tất cả sự đền đáp công lao thuộc về Albert. Hắn chủ động cho ra một bài thuyết trình về vấn đề. Hắn biết tất cả những điều đó từ thời trẻ tuổi đi theo một người buôn đồ cổ.

– Tưởng tượng dì Ada thật sự để lại một dụng cụ bí mật như thế, dán tem ở trên để làm cho xong. Thực tế bà biết một cái gì đó, nhưng lại sẵn sàng tin ở Sunny Ridge có một kẻ nào đó nguy hiểm. Em tự hỏi xem bà có biết cô Packard không.

– Đó chỉ là ý kiến của em.

– Đó là một ý kiến rất hay nếu đó đúng là một băng nhóm tội phạm chúng ta đang săn lùng. Chúng cần một chỗ như Sunny Ridge, có danh tiếng và được điều hành tốt, với một người có năng lực điều hành. Một kẻ nào đó có phẩm chất thích hợp để tiếp cận với thuốc men khi cần. Và bởi chấp nhận bất cứ cái chết nào xảy ra hoàn toàn tự nhiên, điều này sẽ ảnh hưởng đến một bác sĩ nghĩ rằng chúng hoàn toàn hợp lí.

– Em có khả năng giải quyết thành công, nhưng thực tế cái lí do thật sự em đưa ra để nghi ngờ cô Packard là bởi vì em không thích miệng lưỡi cô ấy –

– Tốt hơn là ăn thịt anh quách, Tuppence nói giọng suy niệm. Em sẽ bảo anh cái khác, Tommy – giả thiết bức tranh này – bức tranh của Ngôi Nhà Con Kênh – Không Bao Giờ Thuộc về Bà Lancaster cả –

– Nhưng chúng ta biết rõ điều ấy, Tommy giật mình nhìn cô.

– Không, chúng ta không biết. Chúng ta chỉ biết cô Packard nói thế – Đó là cô Packard nói rằng bà Lancaster tặng cho dì Ada.

– Nhưng tại sao phải – Tommy dừng lại –

– Có lẽ đó là lí do tại sao bà Lancaster bị mang đi – để bà sẽ không nói cho chúng ta biết bức tranh không thuộc về bà, rằng bà không tặng cho dì Ada.

– Anh nghĩ rằng đó là một ý kiến xa vời.

– Có lẽ thế. Nhưng bức tranh được vẽ tại Sutton Chancellor – chúng ta có lí do để tin rằng ngôi nhà đó hiện là – hay đã là – được một hội tội ác dùng như một trong chỗ cất dấu của cải – ông Eccles được tin là người đứng đằng sau băng nhóm đó. Ông Eccles người đàn ông chịu trách nhiệm về việc gởi bà Johnson đến mang bà Lancaster đi. Em không tin bà Lancaster từng ở Sutton Chancellor, hay từng ở Ngôi nhà Con Kênh, hay có một bức tranh về nó – dù em nghĩ bà nghe một người nào đó tại Sunny Ridge kể chuyện về nó – có lẽ bà Cocoa? Vậy là bà ấy bắt đầu tán chuyện, điều đó nguy hiểm, vì thế bà phải bị đưa đi. Một ngày kia em sẽ tìm ra bà ấy! Ghi dấu lời em, Tommy.

– Vấn đề của bà Thomas Beresfold.

– Bà trông có vẻ bình phục tốt rồi, nếu tôi có thể nói vậy, bà Tommy. Ông Ivor Smith nói.

– Tôi đang cảm thấy hoàn toàn mạnh khoẻ, Tuppence nói. Điên là tôi để mình bị đánh ngã, tôi tưởng thế.

– Bà đáng được thưởng một cái mề đay – đặc biệt cho sự việc con búp bê này. Làm thế nào bà nắm được những sự kiện này, tôi không biết!

– Cô ấy là con sư tử hoàn hảo, Tommy nói. Chõ mũi vào dấu vết rồi vội chạy đi.

– Tối nay ông không giữ tôi ngoài cuộc họp này chứ. Tuppence nói nghi ngờ.

– Chắc chắn không. Tổng số những sự kiện đã được làm sáng tỏ. Tôi không thể nói tôi biết ơn bà như thế nào. Chúng tôi đã tới Một Chỗ nào, nhắc bà nhé, với hội tội phạm thông minh đáng khác thường này hắn nổi danh về tổng số những vụ cướp phi thường trong năm sáu năm qua. Như tôi đã kể với Tommy khi anh ta đến hỏi tôi coi tôi có biết chút gì về anh bạn qúy phái thông minh hợp pháp của chúng ta, ông Eccles, chúng tôi có những nghi ngờ về hắn một thời gian dài nhưng hắn không phải là người cô dễ dàng tìm ra bằng chứng chống lại. Cẩn thận vô độ. Hắn làm việc như một cố vấn pháp luật – một công việc bình thường trung thực với những khách hàng trung thực.

Như tôi nói với Tommy, một trong những điểm quan trọng là giây chuyền những căn nhà. Những ngôi nhà tiếng tăm có thật có người ở, ở một thời gian ngắn – rồi dọn đi.

Bây giờ, cám ơn bà, bà Tommy, về cuộc điều tra những ống khói và những con chim chết, chúng tôi tìm ra hoàn toàn chắc chắn về căn nhà này. Ngôi nhà là nơi một tổng số của cải đặc biệt được cất giấu. Đó hoàn toàn là một hệ thống thông minh, đem nữ trang hay những đồ vật khác cùng loại đổi thành những gói đựng kim cương thô, cất giấu chúng, rồi đợi đúng thời chúng tẩu ra ngoại quốc, hay mang ra ngoại quốc trong những chiếc thuyền nhỏ đánh cá, khi tất cả những ý tưởng đen tối và tiếng kêu khóc về băng cướp đặc biệt đã chết hẳn.

– Còn gia đình Perry? Có phải họ – tôi hi vọng họ không – trà trộn bên trong?

– Người ta không thể chắc được, ông Smith nói. Không, người ta không thể nắm chắc được. Đối với tôi hình như lão Perry ít ra có biết được cái gì đó, hoặc một lần chắc chắn có biết một cái gì.

– Ông muốn nói bà ta thật sự là một người trong băng tội phạm?

– Có lẽ không. cô biết đấy, có lẽ họ chờ bà ta.

– Chờ đợi gì?

– Bà giữ sự tín nhiệm này, tôi biết bà có thể giữ mồm miệng về những sự kiện này, nhưng cảnh sát địa phương luôn luôn có ý định về người chồng, Amos Perry, có khả thể là người đàn ông có trách nhiệm về làn sóng giết hại trẻ em cách đây nhiều năm. Lão ta thiếu năng lực tinh thần. Y kiền thầy thuốc là lão Có Thể hoàn toàn bị cưỡng bức dễ dàng để thu xếp đưa trẻ đi xa. Không bao giờ có bất cứ chứng cớ trực tiếp nào, nhưng vợ lão có lẽ quá lo âu luôn cung cấp cho lão chứng cớ ngoại phạm thích đáng. Nếu vậy, cô thấy đấy, điều này có thể cho một bọn người vô đạo đức cầm giữ bà và chúng có thể có thể đặt bà như người thuê phần nửa ngôi nhà nơi chúng biết bà ta biết giữ mồm giữ miệng. Có thể chúng thật sự có một số hình thức chứng cớ tai hại chống lại chồng bà. bà đã gặp họ. Bà cảm thấy gì về cả hai, bà Tommy?

– Tôi thích bà ta, Tuppence đáp. Tôi nghĩ bà ấy là – như tôi nói tôi nhận định bà ta như một mụ phù thủy thân thiện, cho ma thuật trắng chứ không đen.

– Còn ông ấy?

– Tôi sợ lão ta, Tuppence đáp. Không phải lúc nào cũng thế. Chỉ một hai lần thôi. Hình như lão ta thình lình to ra và đáng sợ. Chỉ trong một hai phút. Tôi không thể nghĩ ra tôi sợ cái gì, nhưng tôi sợ. Tôi giả thiết, như ông nói, lão có cái đầu không hoàn toàn ổn.

– Có nhiều người như thế, ông Smith nói. Và rất thường tình họ không nguy hiểm. Nhưng bà không thể nói, bà không thể chắc.

– Chúng ta sẽ làm gì tai nhà mục sư tối nay?

– Hỏi một số câu. Thăm vài người.tìm hiểu số sự kiện có thể cung cấp cho chúng ta một ít thông tin quan trọng hơn mà chúng ta cần.

– Thiếu tá Waters có đây không? Người đàn ông viết cho cha cố về đứa trẻ?

– Hình như không có con người như vậy! Nơi mộ chí cổ đã bị dời đi có một cái hòm được chôn – phấn chì kẻ hàng là hòm một đứa trẻ – và đầy của cải chôn dấu. Nữ trang và những đồ bằng vàng từ vụ cướp gần St. Albans. Thư cho cha cố nhằm mục tiêu tìm hiểu những gì xảy ra với ngôi mộ thôi. Hành động phá hoại ngầm của bọn trai địa phương đã đảo lộn tất cả.

– Cha rất lấy làm tiếc, con ơi, cha cố vừa bước tới vừa giăng hai tay ra. Vâng, thật thế đấy, con à, cha bối rối kinh khủng về chuyện xảy ra với con khi mà con tử tế như thế. Khi con đang làm cái việc để giúp cha. Cha thật sự cảm thấy – vâng, thật ra cha đã, tất cả là lỗi ở cha. Đáng lẽ cha không nên để con đi dòm những mộ chí, mặc dù thật ra chúng ta không có lí do chi để tin – không có lí do chi hết – rằng có một số băng nhóm côn đồ –

– Thôi giờ đừng tự làm khổ mình nữa, Thưa Cha, cô Bligh nói, bất ngờ hiện ra nơi khủy tay ông. Bà Beresfold biết, tôi chắc thế, không có gì liên can đến Bà hết. Thật ra cống hiến sự giúp đỡ của bà cực kì dễ thương, nhưng bây giờ tất cả hết rồi, bà hoàn toàn bình phục rồi. Phải không, bà Beresfold?

– Chắc chắn thế. Tuppence đáp, tuy nhiên, thoáng khó chịu, việc cô Bligh trả lời về sức khỏe của mình một cách tin tưởng như thế.

– Hãy đến và ngồi xuống đây với một cái gối sau lưng nào, cô Bligh nói.

– Tôi không cần gối, Tuppence nói, từ chối nhận cái ghế cô Bligh đẩy về phía trước một cách quyền hành. Thay vì vậy, cô ngồi xuống trong một cái ghế có lưng dựa thẳng và cực kì không dễ chịu phía bên kia lò sưởi.

Có một tiếng gõ lớn ở cánh cửa lớn và mọi người trong phòng nhảy lên, cô Bligh vội vã bước ra.

– Đừng lo, Cha, cô nói. Tôi sẽ đi.

– Đi đi, nếu con tử tế thế.

Có những tiếng nói trầm bên ngoài tiền sảnh, rồi cô Bligh trở lại, đưa vào một người phụ nữ to béo trong bộ đồ gấm thêu kim tuyến, đi sau cô là một người đàn ông rất ốm, một người có vẻ mặt như xác chết. Tuppence giật mình nhìn ông ta. Một manh áo choàng đen khoác qua vai, vẻ mặt gầy hốc hác như vẻ mặt đến từ thế kỉ khác. Tuppence nghĩ, có vẻ như ông ta đã đến, bước thẳng ra từ bức hoạ của El Greco.

– Tôi rất vui được găp các bạn, cha cố nói, và quay lại. Tôi có thể giới thiệu Sir Philip Starke, ông và bà Beresfold, ông Ivor Smith. A! Bà Boscowan. Tôi không gặp bà trong nhiều năm, nhiều năm – ông và bà Beresfold.

– Tôi đã gặp ông Beresfold, bà Boscowan nói. Bà nhìn Tuppence. Bà khoẻ không. Tôi rất vui được gặp bà. Tôi nghe nói bà gặp tai nạn.

– Vâng, bây giờ tôi hồi phục rồi.

Những lời giới thiệu hoàn tất, Tuppence dựa lưng và ghế. Sự mệt mỏi bao trùm lên cô dường như thường xuyên hơn trước, cô tự bảo mình sự mệt mỏi ấy là hậu quả của chấn thương sọ não. Ngồi yên lặng, mắt nhắm hờ, cô kiểm tra kĩ lưỡng mọi người trong phòng với sự chú tâm sâu. Cô có linh cảm một vài người trong vở bi kịch – vở kịch cô vô tình bị vướng vào – cùng có mặt tại đây như họ có thể trong một khung cảnh đầy kịch tính. Những sự kiện đang xích lại gần nhau, tự tạo thành một trung tâm hiệp ước. Với sự xuất hiện của hai người Sir Philip Starke và bà Boscowan cho đến nay như là hai nhân vật giấu mình bây giờ thình lình tự giới thiệu mình. Có vẻ như, họ đã ở đó suốt dọc theo vòng tròn bên ngoài, nhưng bây giờ họ đã vào trong. Dù sao họ có quan tâm đến, có liên can. Họ đã đến đây tối nay – tại sao, cô tự hỏi? Phải chăng có người nào triệu tập họ? Ivor Smith? Có phải ông ta ra lệnh cho họ có mặt, hay chỉ nhẹ nhàng yêu cầu? Hay có lẽ họ xa lạ với ông ta như họ xa lạ với cô? Cô tự nhủ: ” Nếu tất cả bắt đầu từ Sunny Ridge, nhưng Sunny Ridge không phải là trung tâm của vấn đề. sự kiện là, và luôn luôn là, ở đây, tại Sutton Chancellor. Những sự việc đã xảy ra ở đây. Không quá trễ, hầu như chắc chắn không trễ. Cách đây đã lâu. Những việc tuyệt đối không liên can đến bà Lancaster – nhưng bà Lancaster đã trở nên vướng vào không ai biết. Vậy bây giờ bà ấy ở đâu?

Một cái rùng mình lạnh lẽo trườn qua Tuppence.

” Ta nghĩ, cô nghĩ, ta nghĩ có lẽ bà ấy đã Chết…

Nếu thế, Tuppence cảm thấy, tự cô đã thất bại. Cô đã dựng lên cho mình sự tìm kiếm lo lắng dài ngày về bà Lancaster, cảm thấy bà Lancaster bị sự nguy hiểm đe doạ và cô đã cương quyết tìm bà Lancaster, bảo vệ bà.

“Và nếu bà ấy chết, Tuppence nghĩ, ta vẫn còn đi tìm bà!”

Sutton Chancellor… Đó là nơi bắt đầu một cái gì đầy ý nghĩa và nguy hiểm đã xảy ra. Ngôi nhà với con kênh là phần của sự việc. Có lẽ đó la trung tâm của mọi chuyện, hay chính tại Sutton Chancellor? Một chỗ nơi người ta đã đến, đã sống, đã rời khỏi, đã trốn chạy, đã biến mất, đã mất tích và tái hiện. Như Sir Philip Starke.

Không quay đầu lại đôi mắt Tuppence chiếu tướng Sir Philip Starke. Cô không biết gì về ông ngoại trừ giòng thác bà ấy tuôn ra suốt buổi độc thoại về những cư dân nói chung. Một người đàn ông trầm tĩnh, hiểu biết, một kĩ nghệ gia, hay ít ra cũng là một người làm chủ một cổ phần lớn. Vì vậy đó là một người giàu có – một kẻ yêu trẻ em. Cô ở đó, quay lưng về phía đó. Trẻ em một lần nữa. Ngôi nhà bên con kênh và con chim trong ống khói, và một con búp bê trẻ em đã rơi ngoài ống khói, bị ném vào đó bởi một người nào đó. Một con búp bê trẻ em lại chứa bên trong lớp vỏ bọc của nó một nắm tay đầy kim cương – những hành vi tội ác. Đây là một trog những đầu não quyết định của một băng nhóm tội phạm lớn. Nhưng có những tội ác còn hung hiểm hơn là đánh cướp. Bà Coplegh luôn luôn nói:” Tôi luôn luôn tưởng tượng như là Ông ta có thể đã làm chuyện đó.”

Sir Philip Starke. Một tên sát nhân? Ỉt ra cũng bảy chục, có lẽ già hơn. Đằng sau mí mắt khép hờ, Tuppence khảo sát ông ta với tri thức sáng suốt rằng cô khảo sát ông để tìm hiểu xem ông có trùng khít với khái niệm về một tên sát nhân của cô không – và một kẻ giết trẻ em.

Ông ta già làm sao, cô ngạc nhiên tự hỏi. Một khuôn mặt khổ tu bị tàn phá. Phải, khổ tu chính xác. Một khuôn mặt bị tra tấn quá rõ ràng. Đôi mắt đen mở lớn này. Mắt El Greco. Thể xác tiều tuỵ.

Tối nay ông ta đã đến đây, cô tự hỏi, tại sao? Mắt cô tiếp tục đến cô Bligh. Ngồi hơi bất ổn trong ghế, thỉnh thoảng nhúc nhích để đẩy một cái bàn nhỏ đến gần ai đó hơn, đưa ra một cái gối, đẩy một vị trí của hộp thuốc lá hay hộp diêm. Bất ổn, không yên. Cô đang nhìn Philip Starke. Mỗi lần thư giãn, mắt cô nhìn ông ta.

‘Tận tụy như chó’, Tuppence nghĩ.’ Ta nghĩ chắc một lần nào đó cô đã yêu ông. Trong một chừng mức nào đó có lẽ cô vẫn còn yêu. Cô không ngừng yêu bất cứ một ai bởi vì cô đã già. Những người như Deborah và Derek nghĩ cô như thế. Họ không thể tưởng tượng bất cứ ai không còn trẻ đang yêu. nhưng tôi nghĩ cô – tôi nghĩ cô vẫn còn yêu ông ta, tuyệt vọng, tận tụy vì tình. Có phải ai đó đã nói – bà Copleigh hay cha cố nói nhỉ, rằng cô Bligh là thư kỉ riêng của ông hồi còn trẻ, cô vẫn còn trông nom công việc của ông ở đây?

‘Phải, Tuppence nghĩ, điều này khá tự nhiên. Những thư kí thường rơi vào tình trường với ông chủ của họ. Gertrude Bligh đã yêu Philip Starke. Phải chăng đó là một sự kiện có ích? Phải chăng cô Bligh biết hay nghi ngờ đằng sau tính cách khổ tu trầm lặng của Philip Starke còn ẩn một sự điên khùng kinh khủng đáng sợ? LUÔN LUÔN QUÁ YÊU TRẺ CON.’

‘Quá yêu trẻ con, tôi nghĩ thế,’ bà Coplegh đã nói thế.

Những sự kiện nắm bắt ông như vậy. Có lẽ đó là lí do cho việc ông trông có vẻ quá bị tra tấn đến thế.

‘Trừ phi đó là một trường hợp một nhà bệnh lí học hay chuyên gia tâm thần học, người ta không biết cái gì về chứng sát nhân điên cuồng,’ Tuppence nghĩ.’ Tại sao họ muốn giết trẻ em nhỉ? Cái gì thúc dục họ? Có phải sau này họ lấy làm tiếc hận? Có phải họ chán ghét, hay tuyệt vọng bất hạnh, hay bị đau khổ?

Ngay lúc đó cô chú ý tia nhìn chăm chú của ông đè nặng lên cô. Mắt ông gặp mắt cô dường như để lại một thông điệp.

“Cô đang nghĩ về tôi, cặp mắt đó nói. Phải, những gì cô đang nghĩ đó là sự thực. Tôi là một người đàn ông bị ma ám.”

Đúng, điều này mô tả ông ta rất chính xác – ông ta là một người đàn ông bị ma ám.

Cô hướng mắt mình đi chỗ khác. Tia nhìn chăm chăm hướng về cha cố. Cô thích cha cố. Cha cố là một người thân thiết. Ông có biết gì không? Tuppence nghĩ, có lẽ ông đang sống giữa một mớ rối rắm ma qủy mà ông chưa bao giờ nghi ngờ. Có lẽ, tất cả những sự kiện xảy ra chung quanh ông mà ông không bao giờ biết về chúng cả, bởi vì trong ông có phẩm chất ngây thơ đáng phiền.

Bà Boscowan? Nhưng bà Boscowan khó mà biết bất cứ chuyện gì. Một phụ nữ trung niên, một người có cá tính, như Tommy nói, nhưng cái đó không đủ diễn tả. Có vẻ như Tuppence kêu gọi bà, bà Boscowan thình lình đứng lên.

– Cô không phiền chứ nếu tôi lên lầu và tắm? Bà nói.

– Ô! Tất nhiên. Cô Bligh dợm đứng dậy. Tôi đưa bà đi, có được không, thưa Cha?

– Tôi biết đường rõ mà, bà Boscowan nói. Đừng lo – bà Beresfold?

Tuppence hơi nhổm dậy.

Tôi sẽ chỉ cho cô, bà Boscowan nói, nơi để đồ. Đi với tôi nào.

Tuppence đứng lên một cách ngoan ngoãn như đứa trẻ. Cô không mô tả cái ấy với bản thân. Nhưng cô hiểu rằng cô đã được kêu gọi và khi bà Boscowan kêu gọi , bạn nên vâng lời.

Rồi bà Boscowan xuyên qua cánh cửa lớn tới tiền sảnh và Tuppence đi theo bà. Bà Boscowan bước lên lầu – Tuppence bước lên theo sau bà.

– Phòng trống ở trên mái, bà Boscowan nói. Phòng này luôn luôn sẵn sàng. Có một phòng tắm dẫn ra từ đó.

Bà mở cánh cửa lớn đầu cầu thang, đi qua, bấm điện sáng và Tuppence theo bà vào trong.

– Tôi rất vui tìm thấy cô ở đây, bà Boscowan nói. Tôi hi vọng sẽ gặp cô. Tôi lo cho cô. Chồng cô có nói với cô không?

– Tôi hiểu bà sẽ nói cái gì đó. Tuppence nói.

– Phải, tôi lo. Bà khép cánh cửa lại sau lưng, đóng kín họ, có vẻ như là, biến thành một cuộc hội kiến riêng tư. Có phải cô có linh cảm, rằng Sutton Chancellor là một nơi nguy hiểm?

– Rất nguy hiểm cho tôi, Tuppence đáp.

– Phải tôi biết. Thật may mắn chưa tệ lắm, nhưng rồi – vâng, tôi nghĩ tôi có thể hiểu được điều đó.

– Bà biết chuyện gì đó. Bà biết cái gì đó về tất cả chuyện này, phải không?

– Trong một chừng mức nào đó tôi biết, và trong một chừng mức nào đó tôi không hiểu. Người ta có những giây phút, những cảm tưởng, cô biết rồi. Khi chúng được phát hiện ra là hợp li, cái ấy đáng lo. Toàn thể hoạt động băng nhóm tội phạm này, hình như quá phi thường. Hình như nó không có chi dính líu tới cả – đột ngột bà ngưng lời.

Tôi muốn nói, nó chỉ là một trong những hoạt động đang tiến hành – thật sự nó luôn luôn tiến hành. Nhưng hiện nay chúng được tổ chức rất tốt, giống như buôn bán. Tuyệt đối thật ra không có chi nguy hiểm cả, khỏi phải nói, không phải về phương diện tội phạm. Nó là Cái Khác. Đó là nên biết chính xác sự nguy hiểm ở đâu và làm thế nào để bảo vệ chống lại nó. Cô phải cẩn thận đấy, bà Beresfold, bà thật sự phải cẩn thận. Bà là một trong nhứng người đâm bổ vào những sự kiện và điều đó không an toàn. Không phải ở đây.

Tuppence chậm rãi nói, bà dì già của tôi – hay bà dì già của Tommy, không phải tôi – một ai đó trong nhà điều dưỡng kể với bà nơi bà mất – rằng có một kẻ giết người.

Emma chậm rãi gật đầu.

– Có hai cái chết trong nhà điều dưỡng, bác sĩ không bằng lòng về hai cái chết ấy. Tuppence nói.

– Có phải điều đó khiến cho cô khởi hành?

– Không, trước nữa cơ.

– Nếu bà có thời gian, bà hãy kể với tôi nhanh lên – thật nhanh bởi vì sẽ có kẻ gián đoạn chúng ta – chính xác những gì xảy ra tại nhà điều dưỡng hay nhà của những bà già hay cái gì đó, khiến cô cất bước ra đi?

– Phải, tôi có thể nói cho bà biết thật nhanh, Tuppence nói, và cô kể rất nhanh.

– Tôi hiểu. Và bà không biết bà già ấy bây giờ ở đâu, bà Lancaster ấy?

– Không, tôi không biết.

– Bà có nghĩ rằng bà ấy đã chết?

– Tôi nghĩ có thể – bà ấy đã chết.

– Bởi vì bà ấy biết chuyện gì đó à?

– Phải. Bà ấy biết cái gì đó. Một vài tội sát nhân. Một số trẻ có lẽ bị giết.

– Tôi nghĩ ở điểm này bà bị sai lầm. Tôi nghĩ đứa trẻ trộn lẫn trong đó và có lẽ bà ấy cũng lẫn lộn nữa. Tôi muốn nói bà già của bà ấy. Bà ấy lẫn lộn đứa con với một điều gì khác, một loại chuyện sát nhân.

– Tôi giả tưởng điều đó có thể. Người già thường hay nhầm lẫn. Nhưng Có một tên sát nhân không rõ tung tích chuyên giết trẻ em ở đây mà, phải không? Hay người phụ nữ tôi mướn nhà ở chung đã nói vậy.

– Phải, có nhiều trẻ trong phần đất quê mùa này đã bị giết. Nhưng chuyện ấy xảy ra cách đây đã lâu rồi. Tôi không chắc. Cha cố cũng không biết đâu. Ông không ở đó. Nhưng cô Bligh ở đó. Vâng, vâng, cô ta phải ở đó. Khi còn là một cô gái trẻ đẹp cô ta phải ở đó.

– Tôi giả thiết vậy.

Tuppence nói. Phải chăng cô ấy rơi vào tình trường với Sir Philip Starke?

– Cô cũng thấy điều đó à? Phải, tôi nghĩ vậy. Hoàn toàn tận tụy vượt quá mức sùng bái thần tượng. Lần đầu tiên đến đây chúng tôi đã để ý đến điều đó, William và tôi.

– Cái gì làm bà đến đây? Có phải bà sống ở Ngôi Nhà Con Kênh?

– Không, chúng tôi không bao giờ sống ở đó cả. Ông thích vẽ ngôi nhà. ông vẽ nó nhiều lần. Cái gì xảy đến với bức tranh mà chồng bà đưa cho tôi?

Ông mang nó về nhà lần nữa. Ông kể lại với tôi điều bà nói về con thuyền – rằng chồng bà không vẽ nó – Con thuyền tên là Waterlily –

– Vâng. Chồng tôi không vẽ con thuyền. Lần cuối cùng nhìn thấy bức tranh không có chiếc thuyền ở đó. Một người nào đó đã vẽ.

– Và đặt tên là Waterlily – và một người đàn ông không hiện hữu, một Thiếu Tá Water – viết về nấm mồ một bé gái – một bé gái tên là Lilian – nhưng trong nấm mồ đó không có đứa trẻ nào được chôn cả, mà chỉ là hòm của một đứa trẻ chứa đầy những hành vi của một băng cướp lớn. Bức tranh chiếc thuyền nhỏ hẳn là một thông điệp – một thông điệp nói đến nơi cất giấu của cải – tất cả dường như cột chặt với tội ác…

– Dường như thế, vâng – nhưng người ta không thể bảo đảm cái mà –

Emma Boscowan thình lình ngưng nói. Bà nói nhanh, ” Hắn đang lên tìm chúng ta. Vô phòng tắm ngay -”

– Ai thế

– Nellie Bligh. Nhảy vô phòng tắm nào – chận cửa lại mau.

– Cô ấy chỉ là một phụ nữ bận rộn, Tuppence nói, biến mất vào phòng tắm.

– Một cái gì đó hơn thế nữa đấy. Bà Boscwan nói.

Cô Bligh mở cửa lớn đi vào, nhanh nhẹn và có ích.

– Tôi hi vọng bà tìm thấy cái bà cần? Cô nói. Có xà phòng và khăn tắm mới, tôi hi vọng thế? Bà Copleigh đến chăm sóc cha cố, nhưng thật ra tôi phải xem xét bà ấy làm mọi chuyện có đúng không đã.

Bà Boscowan và cô Bligh cùng nhau xuống lầu. Tuppence tiếp nối họ ngay khi họ đến cánh cửa lớn của phòng giải trí. Sir Philip Starke đứng dậy khi cô bước vào phòng, sắp xếp lại cái ghế cho cô và ngồi xuống một bên.

– Có phải đó là cách bà cần, bà Beresfold?

– Vâng, cám ơn ông. Dễ chịu lắm.

– Tôi rất tiếc có nghe – giọng ông có một vẻ duyên dáng mơ hồ, dù có một số yếu tố của giọng nói như ma ám, xa vời, thiếu hẳn âm điệu, tuy với một chiều sâu kì dị – về tai nạn của bà. Ngày nay chuyện ấy quá buồn – có đủ mọi tai nạn.

Mắt ông đang lãng đãng trên khuôn mặt Tuppence và cô nghĩ thầm,” Ông ta đang làm một cuộc khảo sát ta y hệt như ta đã làm với ông thật chăm chú.” Cô liếc nhìn Tommy thật sắc, nhưng Tommy đang nói chuyện với bà Boscowan.

– Cái gì khiến bà đến Sutton Chancellor như một nơi đầu tiên thế này, bà Beresfold?

– Ô, chúng tôi đang tìm một căn nhà trong xứ theo một chiều hướng nói chung khá mơ hồ. Chồng tôi xa nhà đang tham dự một hội nghị này khác và tôi nghĩ mình nên đi du lịch một vòng có lẽ một phần của miền đồng quê – chỉ để xem ở đó có cái gì đang tiến hành, và loại giá cả người ta phải trả, ông biết đấy.

– Tôi có nghe bà đi và xem xét ngôi nhà bên chiếc cầu con kênh?

– Phải, tôi có đi. Tôi tin tôi để ý đến nó từ xe lửa. Đó là một ngôi nhà vô cùng quyến rũ – nhìn từ bên ngoài.

– Vâng. Tôi sẽ tưởng tượng, dầu vậy, ngay từ bên ngoài cũng cần nhiều việc để làm, đối với mái nhà và những việc giống vậy. Phía ngược lại thì không quyến rũ lắm, phải không?

– Không, dường như chia đôi ngôi nhà đối với tôi là một cách khá kì dị.

– Ô thì, Sir Philip Starke nói, người ta có nhiều ý kiến khác nhau, phải thế không?

– Ông không bao giờ sống ở đó sao? Tuppence hỏi.

– Không, không, thật thế. Nhà tôi bị cháy rụi cách đây nhiều năm. Có phần nhà còn tồn tại.Tôi hi vọng cô đã thấy nó hay có ai chỉ cho cô thấy. Nó ở phía trên nhà của mục sư giáo khu này, trên ngọn đồi một chút. Ít ra đó là cái người ta gọi là ngọn đồi trong cái phần lớn nhất của thế giới. Không bao giờ nói khoác. Cha tôi xây dựng nó vào 1890. Một cơ sở đáng kiêu hãnh. Kiến trúc mạ kiểu Gothic, chút ít của Balmoral. Ngày nay những kiến trúc sư lại say mê loại kiểu dáng đó, mặc dù cách đây bốn mươi năm nó thật sự bị kinh sợ. Một ngôi nhà được gọi là nhà qúy tộc phái có đủ mọi cái. Giọng ông nhẹ nhàng mỉa mai. Một phòng chơi bi da, một phòng buổi sáng, hành lang cho qúy bà, phòng ăn lộng lẫy, phòng khiêu vũ, khoảng mười bốn phòng ngủ, và một lần đã – hay tôi sẽ tưởng tượng – một nhóm mười bốn người hầu cận để trông coi ngôi nhà.

– Vọng âm của ông có vẻ như không bao giờ ông thích nó.

– Tôi không bao giờ yêu ngôi nhà đó. Tôi là một mối bất hoà của cha tôi. Ông là một kĩ nghệ gia rất thành công. Ông hi vọng tôi sẽ nối gót ông. Tôi không. ông cư xử với tôi rất tốt. Ông cho tôi một lợi tức lớn, hay tiền trợ cấp lớn – như người ta thường gọi – và để tôi đi đường tôi.

– Tôi nghe nói ông là một nhà thực vật học.

– Phải, đó là một trong những món thư giãn lớn nhất của tôi. Tôi thường đi kiếm hoa dại, đặc biệt tại Balkans. Cô đã từng đến Balkans kiềm tìm hoa dại chưa? Đó là một nơi chốn tuyệt vời cho hoa rừng.

– Nó vang âm rất quyến rũ. Rồi ông thường trở về sống ở đây?

– Tôi không sống ở đây trong rất nhiều năm nay. Thật ra, tôi không bao giờ sống ở đây từ khi vợ tôi chết.

– Ô, Tuppence nói, bối rối nhẹ nhàng. Ô, tôi rất – tôi xin lỗi.

– Đến nay là một thời gian khá lâu rồi. Cô ta chết trước chiến tranh. Vào 1938. Cô là một phụ nữ rất đẹp, ông nói.

– Ông có còn bức tranh nào của bà trong nhà ông ở đây không?

– Không, căn nhà trống. Tất cả đồ đạc, tranh ảnh và đồ vật được gởi đi để bán. Chỉ có một phòng ngủ một phòng làm việc và một phòng ăn nơi các đại diện của tôi đến, hoặc tôi đến nếu tôi phải xuống đây và xem bất cứ công việc kinh doanh bất động sản nào.

– Ngôi nhà không bao giờ bán sao?

– Không. Có một số câu chuyện về việc khuyếch trương đất đai ở đây. Tôi cũng không có cảm tưởng chi về nó. Cha tôi hi vọng ông đang khởi sự một thứ thế lực phong kiến. Tôi kế tục cha tôi và con tôi kế tục tôi và vân vân và vân vân. Ông ngưng lại một phút rồi nói, nhưng Julia và tôi không có đứa con nào.

– Ô, Tuppence mềm mỏng nói, tôi hiểu.

– Vì vậy không có cái gì để đến đây cả. Thật sự tôi ít đến lắm. Bất cứ chuyện gì cần được giải quyết ở đây Nellie Bligh làm cho tôi. Ông cười với cô. Cô ấy là nữ thư kí tuyệt vời nhất. Cô ta còn tham gia công việc kinh doanh của tôi và các việc tương tự.

– Ông không bao giờ xuống đây và ông không cần bán nó? Tupennce nói.

– Đó là lí do rất hay tại sao không bán, Sir Philip Starke trả lời.

Một nụ cười yếu ớt thoảng trên những nét khổ tu.

– Có lẽ sau rốt tôi thật đã có thừa hưởng ý thức kinh doanh của cha tôi. Đất đai, khỏi phải nói, đang phát triển cái giá trị vô hạn của nó. Nó là tiền đầu tư tốt hơn nếu tôi bán nó. Đánh giá cao mỗi ngày. Một ngày nào đó, ai biết không, chúng tôi sẽ có một thị trấn mới to lớn được xây dựng trên miếng đất này.

– Rồi ông sẽ giàu?

– Rồi tôi sẽ là một người giàu hơn tôi hiện tại. Và tôi cũng đủ giàu rồi. Sir Philip nói.

– Hầu hết thời gian ông làm gì?

– Tôi du lịch, và tôi thích thú London.Tôi có một phòng tranh ở đó. Nhân tiện nói luôn tôi là một người buôn tranh. Tất cả các công việc này đều thú vị. Nó chiếm khoảng thời gian một đời người – cho đến cái giây phút một bàn tay đặt lên vai bạn nói” ra đi”.

– Đừng, Tuppence nói. Vang âm đó – khiến tôi run rẩy.

– Không cần cô run mà. Tôi nghĩ cô sắp có một cuộc đời dài, bà Beresfold, và một cuộc đời rất hạnh phúc.

– Phải, hiện tại tôi rất hạnh phúc, Tuppence đáp. Tôi giả thử tôi sẽ gánh lấy mọi ưu phiền đau đớn mà người già gặp phải. Điếc và mù và viêm khớp và một số bệnh khác.

– Có lẽ cô không lo lắng nhiều như cô nghĩ cô sẽ lo. Nếu tôi có thể nói thế, mà không bị cho là thô lỗ, cô và chồng cô dường như có một đời sống hôn nhân rất hạnh phúc.

– Chúng tôi có, Tuppence nói. Tôi cho là thật thế, không gì hơn trong cuộc sống bằng cuộc hôn nhân hạnh phúc cả, phải vậy không?

Một giây sau cô ước chi mình không thốt ra những lời này. Khi cô nhìn người đàn ông ngồi đối diện, người mà cô cảm thấy đã buồn trong quá nhiều năm và thật ra có thể còn buồn vì đánh mất một người vợ yêu dấu, cô cảm thấy thậm chí giận dữ hơn với chính mình.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.