Cuộc Chiến ở Vụ Hương
Long Thành quân đoàn thật không phụ thịnh danh uy chấn Tái bắc, trong làn sương mù lúc bình minh, với khí thế lôi đình vạn quân, xuất hiện ở khắp bốn phương tám hướng, như gió lốc tập kích thẳng vào trận địa của Hoang nhân.
Nếu như Hoang nhân không sớm có chuẩn bị, lại có xa trận có sức phòng ngự mạnh mẽ, khẳng định sẽ bị vó ngựa của địch giẫm thành bụi phấn, đến một tấm giáp cũng không còn. Hiện tại dĩ nhiên là hai việc hoàn toàn khác nhau.
Quân chủ lực của địch nhân chia làm bốn đội, mỗi đội năm ngàn người, chia ra từ hai phía đông tây vượt gò đất đánh thốc xuống, khí thế hung mãnh tựa như sóng dữ vỗ bờ, khiến người trông thấy mà sợ vỡ mật.
Hai đội khác, mỗi đội ba ngàn quân, phân ra từ phía nam và phía bắc vùng bình địa hoang dã ở giữa Khâu lăng, điên cuồng tấn công hai bên cánh trận địa của Hoang nhân.
Vương Trấn Ác chỉ huy toàn cục, thần sắc bình tĩnh, không chút mảy may bị uy thế kẻ địch làm lay động, lạnh lùng liếc nhìn tình hình của địch quân, nắm chắc mạnh yếu thực hư của chúng.
Bỗng nhiên, hàng kỵ binh địch ở phía trước từ hai phía đông tây đánh xuống người ngã ngựa đổ. Hoang nhân liền phát ra tiếng hoan hô rung trời, nguyên lai là Bán mã tác đã phát huy tác dụng.
Vị trí thiết lập Bán mã tác đã được dày công tính toán, vừa đúng ở nơi phía trên chân dốc hai trượng, được che đậy trong sương mù và cây cỏ, hiển nhiên có thể coi là kỳ binh tập kích. Địch nhân vốn đang nắm chắc thắng lợi, vừa trông thấy chúng, lập tức trúng đòn. Mấy hàng chiến sĩ phía trước cả người lẫn ngựa lăn xuống sườn dốc, rơi thẳng xuống tận chân dốc, lập tức khiến cho địch nhân vốn đang khí thế như cầu vồng bị loạn thành một đoàn. Gay go nhất chính là thế tiến khó dừng, con đường phía trước mặc dù bị ngăn trở bởi người ngựa của phe mình ngã xuống làm vướng chân, nhưng lại không có cách nào khác dừng bước ở sườn dốc, lại còn cả chiến hữu phía sau không ngừng vượt dốc mà đến, tình hình lại càng không thể chịu nổi.
Vương Trấn Ác quát: “Bày thuẫn!”
Thuẫn bài thủ phân làm ba hàng bố trí ở xa trận và hai chỗ hổng bên hông, hàng đầu tiên ngồi xuống đất, hàng thứ hai quỳ trên mặt đất, hàng sau cùng đứng thẳng, tất cả đều dựng thẳng thuẫn bài lên, bố trí thành thuẫn trận không có khe hở nào để có thể vào được, nhằm bảo vệ sáu hàng tiễn thủ phía sau.
Trong lúc địch nhân vượt dốc công tới trận thế đang đại loạn, thế xung kích bị áp chế, kỵ binh hai bên hông như gió lốc đánh tới. Trong giờ khắc này, chỉ có hai nhánh kỵ binh địch nhân này là có khả năng xoay chuyển bại thế.
Việc bài trí xa trận này là do Vương Trấn Ác chú tâm thiết kế, cố ý khiến cho địch nhân sinh ra ảo tưởng rằng vẫn có cơ hội, sẽ không vì thế công gặp khó khăn mà rút lui ngay, như thế thì có thể khiến cho địch nhân rơi vào khổ chiến, là kế sách chiến lược kéo dãn và làm suy yếu sức lực chiến đấu của địch nhân trên diện rộng.
Trên thực tế, chỗ hổng của hai bên hông ở hai phía nam bắc tựa hư mà lại thực, chính là nơi mà binh lực Hoang nhân mạnh mẽ nhất, lại không cần phải chú ý hai phía trái phải, năng lực phản kích tập trung cao độ. Thuẫn thủ tuy vẫn chỉ có ba hàng, nhưng loại thuẫn được sử dụng ở hàng đầu tiên có các mũi nhọn, chính là loại trọng thiết thuẫn có thể đâm sâu vào những kẻ xâm nhập, đủ sức để chống đỡ công kích của kỵ binh địch. Tiễn thủ có sáu hàng, luân phiên phóng tiễn xuống, cơ hội cho kỵ binh địch có thể xông đến trong vòng năm mươi bước thực sự là cực kỳ ít ỏi.
Vương Trấn Ác quát lớn: “Phóng tiễn!”
Kình tiễn từng loạt từng loạt rời dây cung phóng đi, mưa tên bắn vào địch nhân một cách không thương tiếc. Khi hàng tiễn thủ cuối cùng bắn tên ra, hàng tiễn thủ phía trước lại lắp tên vào dây cung, bắn ra một loạt tên khác.
Kỵ binh địch tới tấp đổ xuống.
Tình hình của kỵ binh địch từ sườn đồi tấn công xuống lại càng không chịu nổi, xa trận của Hoang nhân khiến cho bọn chúng muốn tiến lên phía trước mà không có đường đi, nhưng lại bị chiến hữu ở phía sau không ngừng vượt đồi chen chúc xông tới, chỉ có thể tiến về phía trước, ném mình vào trong cơn mưa tên dày đặc mà đi. Tình hình của bọn chúng thật thê thảm, sự hỗn loạn của hình thế có thể tưởng tượng ra được.
Tiếng kèn lệnh vang lên ở đỉnh đồi phía đông.
Vương Trấn Ác biết được rằng Mộ Dung Long thấy tình thế bất diệu nên thổi kèn lệnh triệt thoái, nào dám do dự, quát lớn: “Nổi trống lên!”
“Tùng! Tùng! Tùng! Tùng!”
Tiếng trống vang vọng khắp Bắc khâu.
Yến Phi và Hướng Vũ Điền nghe thấy tiếng trống, tinh thần lập tức phấn chấn như cất được tảng đá lớn trong lòng.
Theo kế hoạch, khi tiếng trống vang lên, Mộ Dung Chiến cùng Đồ Phụng Tam chỉ huy năm ngàn chiến sỹ Hoang nhân lập tức hành động, cùng với Hoang nhân bài bố xa trận giáp kích địch nhân đang từ phía tây tiến đánh trận địa; khiến cho địch nhân ở trận địa phía tây không thể hội họp với địch nhân tấn công trận địa từ phía đông, không có cách nào lùi về Vụ Hương được.
Tiếng trống bỗng chốc cấp tốc vang lên, tiếp đó đột nhiên ngừng lại.
Khoảnh khắc tiếng trống ngừng lại chính là thời khắc mà bọn họ tiến công.
Hướng Vũ Điền giơ Thần hỏa phi nha lên, mỉm cười nói: “Đã đến lúc rồi!”
Yến Phi sớm đã đánh lửa, đến gần bốn chiếc hỏa tiễn đang ngóc đầu lên trên tay gã, ngắm kỹ vào ngòi nổ dài khoảng một xích trên thân Thần hỏa phi nha, sau đó châm cháy từng quả một.
“Vù!”
Thần hỏa phi nha từ trên tay Hướng Vũ Điền bay lên, trong làn sương mù dày đặc vẽ ra vệt lửa mỹ lệ, vỗ cánh bay xuống sườn dốc.
Một trăm danh thủ vừa đủ hai người một tổ, đồng thời y theo cách đó mà làm. Năm mươi chiếc Thần hỏa phi nha xuyên qua làn sương mù dày đặc, vẽ ra năm mươi vệt lóng lánh trong bầu trời đầy sương, tựa như một tấm lưới khổ rộng bao quát lấy mọi thứ, và cái đồ án có lực phá hoại không ngừng biến hóa đó lại đang chụp xuống.
Chỉ cần có một nửa phi nha trong số đó trúng mục tiêu cũng đủ khả năng khiến Vụ Hương rơi vào biển lửa. Khi khói lửa dậy lên ngút trời, Mộ Dung Long mới hiểu được không còn đường triệt thoái, chỉ còn sinh lộ duy nhất chạy trốn về phía bắc, khi đó bọn chúng sẽ tương ngộ với năm ngàn quân Thác Bạt tộc tinh nhuệ của Thôi Hoành.
Yến Phi hạ lệnh một tiếng, mọi người nhất tề reo hò, bám vào vách núi mà nhảy xuống, đánh giết tới Vụ Hương.
Vương Trấn Ác chỉ trông hình thế bên địch liền biết được đối phương đại thế đã mất, địch nhân ở hai cánh đã theo binh sĩ phía đông rút chạy như thủy triều về phía Vụ Hương.
Phía tây sau Lăng khâu cũng vang lên tiếng chém giết rung trời, chứng tỏ binh sĩ do Mộ Dung Chiến và Đồ Phụng Tam lãnh đạo đã theo đúng kế hoạch, từ nơi giấu quân xuất kích, ngăn chặn địch nhân muốn vòng qua Vụ Hương.
Vương Trấn Ác thấy thời cơ không thể bỏ lỡ, quát lớn: “Nổi trống lên!”
Hồi trống thứ hai lập tức nổi lên vang trời.
Cùng lúc, các chiến sĩ Hoang nhân trong trận cùng cất lên tiếng hoan hô, chuyển thủ thành công, tới tấp lên ngựa. Một nửa số người do Trác Cuồng Sinh, Hồng Tử Xuân và Cơ Biệt suất lĩnh, xông ra ngoài xa trận vượt đồi mà tiến tới, giáp kích binh lính địch nhân ở phía tây.
Một nửa còn lại thì do Vương Trấn Ác dẫn đầu, xuất trận truy kích địch nhân triệt thoái phía sau.
Nhất thời tiếng vó ngựa rung trời, chiến sĩ Hoang nhân giẫm lên thi thể người ngựa bên địch, triển khai phản kích toàn diện.
Thác Bạt Khuê và Sở Vô Hạ cưỡi ngựa sánh vai chạy lên Bình Đính khâu, điểm cao nhất của Nguyệt khâu, thu hết vùng bình dã bao la phía đông vào trong tầm mắt. Thái Hành sơn nơi xa xa bình địa tựa như đã trở thành nơi tận cùng của mặt đất.
nguồn TruyenFull.vn
Thác Bạt Khuê cầm roi ngựa chỉ về phía phương xa, nói: “Đó chính là dãy Liệp Lĩnh nơi Mộ Dung Thùy giấu quân. Ta thực sự hy vọng có thể ở bên cạnh hắn, xem biểu tình và phản ứng của hắn khi biết được chúng ta tiến công Nguyệt khâu.”
Sở Vô Hạ hít sâu một hơi không khí trong lành, Tang Can hà từ phía đông bắc đổ xuống, chảy qua phía bắc Nguyệt khâu, đổ về phía tây nam. Hai bên bờ hiện ra màu sắc xanh tươi, một vùng cảnh đẹp của đại địa hồi xuân, tràn trề sức sống.
Thác Bạt Khuê cảm thán: “Nếu như cho ta thọ thêm năm mươi năm nữa thì ta nhất định có thể nhất thống thiên hạ. Cho dù phía nam có Lưu Dụ quật khởi, trở thành chủ nhân của triều đại mới, vẫn không phải là đối thủ của Thác Bạt Khuê ta.”
Sở Vô Hạ không đáp.
Thác Bạt Khuê ngoảnh mặt nhìn lại phía nàng, kinh ngạc hỏi: “Vô Hạ vì sao lại không nói gì, không đồng ý với ta sao?”
Sở Vô Hạ ôn nhu đáp: “Tộc chủ chính đang cao hứng, Vô Hạ sao dám làm mất hứng thú của tộc chủ, lại không muốn nói lời trái với lòng, đành phải không nói.”
Thác Bạt Khuê hiển nhiên tâm tình cực tốt, không mảy may cho là ngang ngược, bật cười khanh khách: “Vô Hạ cứ nói thẳng đừng ngại, ta tuyệt sẽ không vì lời nói chân tâm của nàng mà mất hứng.”
Sở Vô Hạ nói: “Ta chỉ hy vọng tộc chủ không nên khinh thường Lưu Dụ. Người này thực sự là nhân kiệt, mỗi lần rơi vào tuyệt cảnh lại có thể tạo ra kỳ tích. Những người xem nhẹ hắn đều không có được kết quả tốt.”
Thác Bạt Khuê cười nói: “Vô Hạ có lẽ vẫn chưa biết ta đã từng cùng với Lưu Dụ kề vai tác chiến, đối với hắn có nhận thức sâu sắc, nắm rõ tính cách và tài cán của hắn hơn so với bất luận kẻ nào. Người khác có thể vì khinh thường hắn mà phạm sai lầm, nhưng tuyệt đối không phải là Thác Bạt Khuê ta.”
Sở Vô Hạ ngạc nhiên: “Thế thì tại sao tộc chủ đối với việc chinh phục miền nam lại vẫn có lòng tin như vậy?”
Thác Bạt Khuê ngửa mặt trông lên bầu trời bao la, thở ra một hơi hào tình tráng khí trong lòng, thản nhiên đáp: “Ta quan sát từ đại thế thiên hạ, bắc cường nam nhược, từ xưa đã như vậy, lấy nhân khẩu mà luận, nhân khẩu phương bắc nhiều hơn so với phương nam. Đó là lý do mà Phù Kiên huy động hết binh lực thì có thể đạt tới trăm vạn người, mà Tạ Huyền chỉ vẻn vẹn có thể dùng tám vạn người nghênh tiếp ở Phì Thủy, từ đây có thể thấy rõ được tương quan nhân khẩu giữa nam và bắc.”
Sở Vô Hạ á khẩu vô ngôn, không có cách nào phản bác lại được. Nhân khẩu là nhân tố kinh tế trọng yếu nhất, nam dùng để canh tác, nữ dùng để dệt vải, chính là hai trụ cột lớn của kinh tế. Thác Bạt Khuê từ nhân khẩu nhiều ít mà so sánh sự mạnh yếu của nam bắc là có đạo lý.
Thác Bạt Khuê hiển nhiên đang rất hứng thú nói chuyện, tiếp lời: “Tiếp đó là quân sự. Bất luận là Thác Bạt Tiên Ti tộc chúng ta hay Mộ Dung Tiên Ti tộc, cho tới người Khương, người Thị và người Hung Nô, binh chủng đều lấy kỵ binh làm chủ, sức chiến đấu mạnh mẽ. Bất luận từ sự chặt chẽ của tổ chức, sự tinh nhuệ của kỵ thuật, sự tinh minh của trinh sát, đều hơn xa người Hán phương nam. Chỉ cần không có sai lầm mà Phù Kiên phạm phải, người Hán có thể là đối thủ của chúng ta sao?”
Sở Vô Hạ hỏi: “Thế thì tại sao cho đến tận hôm nay, phương bắc vẫn chưa thể chinh phục phương nam?”
Thác Bạt Khuê vui vẻ nói: “Vô Hạ hỏi rất hay! Điều này chính là vấn đề làm ta suy nghĩ khổ sở nhiều năm. Chỉ có hiểu rõ nguyên nhân thất bại của tiền nhân thì Thác Bạt Khuê ta mới có thể tránh được phạm phải sai lầm tương tự, khiến cho việc sắp thành lại hỏng.”
Sở Vô Hạ động dung: “Nguyên lai tộc chủ sớm đã từng suy nghĩ sâu xa về vấn đề của phương diện này, không phải là nhất thời hứng khởi mà nói ra lời hùng tráng.”
Thác Bạt Khuê ngạo nghễ nói: “Thác Bạt Khuê ta sao lại giống như những kẻ cuồng vọng vô tri đó. Muốn chinh phục phương nam trước tiên phải thống nhất phương bắc. Nếu như ta có thể đánh đổ Mộ Dung Thùy trong trận này, ta có lòng tin trong hai mươi năm sẽ dẹp yên chư hùng phương bắc. Lại cho ta khoảng thời gian ba mươi năm nữa thì phương nam cũng phải thần phục dưới gót sắt của ta. Với khí lực của ta hiện tại, từng sống qua bảy mươi năm thì không thấy có gì hiếm lạ cả, cho nên ta tuyệt không phải là khẩu xuất cuồng ngôn mà là dựa vào tình hình hiện thực mà suy luận ra.”
Sở Vô Hạ khó hiểu hỏi: “Vì sao việc chinh phục phương nam lại cần lâu đến ba mươi năm?”
Thác Bạt Khuê đáp: “Dùng vũ lực thống nhất phương bắc không phải là chuyện khó khăn nhất, ta có tràn đầy lòng tin có thể làm được. Nhưng tiếp theo là làm sao thống trị phương bắc, mới là chỗ khó khăn. Nếu không thì ta chỉ là một Phù Kiên khác, sau khi Phì Thủy chiến bại thì đế quốc lập tức tan rã, điều này đã chứng tỏ rằng Phù Kiên chưa giải quyết được vấn đề trị quốc.”
Sở Vô Hạ lòng hiếu kỳ trỗi dậy, không nhịn được hỏi: “Phù Kiên rốt cuộc đã xảy ra vấn đề ở chỗ nào?”
Thác Bạt Khuê thần sắc trở nên ngưng trọng, chậm rãi nói: “Nói cho cùng, bất luận là Thạch Lặc hay Phù Kiên, đều thất bại ở chỗ chưa thể thực hiện tốt được mối quan hệ dân tộc. Điều này liên quan đến một vấn đề có hai mặt. Trước tiên là lấy một dân tộc để thống trị nhiều dân tộc mà trong đó bao gồm cả người Hán và người Hồ, việc dung hòa dân tộc há phải là chuyện trong một sớm một chiều có thể giải quyết được, vấn đề vì thế đi đến chỗ không có kết thúc.”
Ngừng lại một chút rồi nói tiếp: “Thứ hai là việc thống nhất không thể bắt đầu làm từ mặt huyết thống mà phải xem trình độ cao thấp về văn hóa. Văn hóa càng cao chính là càng hiểu thuật trị quốc. Mà muốn thống nhất các tộc thì nhất định phải thống nhất văn hóa trước, điều đó giống như là chỉ có binh lực hùng mạnh nhất mới có thể chinh phục tứ phương. Trị quốc cũng như vậy, chỉ có văn hóa cao nhất mới có khả năng duy trì quốc gia đi đến thống nhất.”
Sở Vô Hạ nói: “Những lời này của tộc chủ khiến người tỉnh ngộ, nhưng Phù Kiên không phải cũng dốc sức thúc đẩy Hán hóa sao? Nhưng ông ta cuối cùng lại thất bại.”
Thác Bạt Khuê vui vẻ đáp: “Lời này của Vô Hạ vừa đúng trả lời cho việc tại sao ta lại cho rằng cần lâu tới ba mươi năm mới có thể thu phục vấn đề phương nam. Việc thống nhất và dung hợp văn hóa không phải là chuyện mà chỉ cần một bước là xong. Phù Kiên chính là bởi nóng gấp làm bừa, lúc thời cơ chưa chín muồi mà đã xâm nhập phương nam, khiến cho việc sắp thành lại hỏng. Thác Bạt Khuê ta há có thể lại giẫm vào vết xe đổ đó sao?”
Gã lại nói: “Sở dĩ ta nhìn trúng Lạc Dương là quốc đô sau này chính là vì lợi ích lâu dài thống nhất thiên hạ. Bởi vì Lạc Dương là trung tâm văn hóa ở phương bắc ngoài Trường An, là cố đô của Đông Hán, Ngụy, Tấn, mà người Hán ở phương bắc thì chỉ nhận miếu không nhận thần, nếu có ai có thể đóng đô ở Tung sơn và Lạc hà, người đó là người có văn hóa chính thống.”
Sở Vô Hạ tâm phục khẩu phục, vui mừng nói: “Tộc chủ không chỉ có chí thống nhất thiên hạ, mà còn có năng lực thống nhất thiên hạ, vì thế mới có kế hoạch to lớn này.”
Thác Bạt Khuê quay đầu nhìn xuống Nguyệt khâu. Trên bình nguyên nhấp nhô mấy dãy đồi núi đã bị chiến sĩ phe mình hùng cứ, vệ sĩ đóng giữ các địa điểm chiến lược, an doanh lập trại, lính công sự thì bắt đầu đào hầm hào, phải trong thời gian ngắn nhất kiến lập lên trận địa có lực phòng ngự mạnh mẽ.
Đội xe la từ Bình Thành đi ra ùn ùn không dứt, vận chuyển vật tư lương thảo dự trữ ở Bình Thành, tình cảnh thật tráng lệ.
Thác Bạt Khuê thở ra một hơi thật dài, nói: “Cuộc chiến giữa huynh đệ Yến Phi của ta và Mộ Dung Long chắc đã phân thắng bại rõ ràng.”
Sở Vô Hạ trong lòng minh bạch. Sở dĩ Thác Bạt Khuê bỗng nhiên nói chuyện về đại kế sau này chính bởi vì ông ta thấp thỏm trong lòng về sự thành bại của Hoang nhân. Mà tưởng tượng về tương lai chính là phương pháp làm giảm bớt lo lắng trong lòng của Thác Bạt Khuê. Thác Bạt Khuê ghìm ngựa quay đầu, nói: “Chúng ta trở về thôi!”
Chiến trường thi thể nằm ngang dọc khắp đồng, khiến người thấy thảm thương không nỡ nhìn.
Trận chiến này Hoang nhân thu được toàn thắng, tiêu diệt hơn hai vạn quân địch, còn chỉ có hai ngàn người bị thương, đủ thấy được sự ác liệt của tình hình chiến trận.
Liên quân Hoang nhân và Thác Bạt tộc số người chết trận là hơn nghìn người, số người trọng thương chỉ mấy trăm. So với số lượng tương ứng kinh người của bên địch thì đó thực sự là con số nhỏ bé không đáng nói đến.
Bọn họ lại thu được lượng lớn lương tiền cùng cung tiễn binh khí của Long Thành quân đoàn trong Vụ Hương, chiến mã bắt được đạt đến năm ngàn con, thành quả thật to lớn.
Dưới sự chỉ huy của Thôi Hoành và Vương Trấn Ác, liên quân đang thu dọn tàn cục mà chiến tranh để lại, một mặt an táng người chết, đồng thời chữa trị cho thương binh.
Bọn Yến Phi, Hướng Vũ Điền, Trác Cuồng Sinh, Hồng Tử Xuân, Cơ Biệt, Bàng Nghĩa đứng trên gò cao quan sát tình hình bốn phía xung quanh.
Diêu Mãnh lúc này đang thúc ngựa lên đỉnh gò, dẫm vào bàn đạp nhảy xuống ngựa, kêu lên: “Không nhìn thấy thi thể của Mộ Dung Long, có lẽ tên tiểu tử này đã chuồn mất rồi.”
Hồng Tử Xuân gật đầu nói: “Hắn đã chuồn mất rồi, có người trông thấy hắn đào tẩu về phía bắc dưới sự bảo vệ của mấy chục thân binh.”
Trác Cuồng Sinh vuốt râu: “Mộ Dung Long đem tin tức toàn quân chết sạch tới cho lão phụ thân của hắn, lão ta sẽ có phản ứng thế nào nhỉ?”
Cơ Biệt thở dài: “Cái này thì phải ông trời mới biết được.”
Mọi người đều muốn cười nhưng lại cười không nổi. Chiến tranh là một chuyện ác tàn nhẫn để xem ai bị thương tổn thiệt hại nhiều hơn, bên thất bại tất nhiên là thê thảm, bên chiến thắng cũng chẳng dễ chịu gì.
Diêu Mãnh nói: “Thôi bảo chủ bảo ta đến hỏi các vị đại ca xử trí tù binh và thương binh của địch nhân như thế nào?”
Mục quanh của mọi người hướng về phía Yến Phi, xem quyết định của chàng.
Yến Phi bất giác nhớ tới thủ đoạn tàn nhẫn xử lý tù binh địch của Thác Bạt Khuê ở Tham Hợp pha, thầm thở dài một hơi, nói: “Kẻ nào có thể tự ly khai thì mặc cho bọn họ tùy ý rời khỏi, chúng ta càng phải cư xử tốt với người trọng thương của đối phương.”
Trác Cuồng Sinh đề nghị: “Ngày mai, đội la ngựa của Hô Lôi Phương vận chuyển lương thảo sẽ tới, có thể sau khi hắn tháo dỡ lương tiền xuống sẽ đưa tất cả người trọng thương trở về Thôi gia bảo quản lý. Tù binh địch sau khi khỏi bệnh thì sẽ thả cho bọn họ đi!”
Cơ Biệt gật đầu: “Đó là biện pháp hay nhất.”
Diêu Mãnh nhảy lên lưng ngựa, lĩnh mệnh chạy đi.
Trác Cuồng Sinh nói: “Chúng ta nếu như chờ đợi Hô Lôi Phương đến nơi này rồi mới có thể khởi hành, sợ rằng phải mất hơn hai ngày dùng dằng tại đây, cũng có thể nghỉ ngơi thật tốt để khôi phục nguyên khí.”
Cơ Biệt nhìn sang bốn phía, cười khổ nói: “Thật không muốn lưu lại cái địa phương quỷ quái này.”
Mọi người đều có đồng cảm sâu sắc.
Yến Phi hỏi: “Ta phải đi trước một bước để báo tin cho Thác Bạt Khuê, Hướng huynh đi cùng ta chứ?”
Hướng Vũ Điền đáp: “Ngươi muốn bỏ rơi ta cũng không được.”
Trác Cuồng Sinh nói: “Ta thật hâm mộ các ngươi, nói đi là đi, để lại cái cục diện hỗn loạn này cho chúng ta.”
Bàng Nghĩa bảo: “Ngươi cũng có thể cùng bọn tiểu Phi lên đường mà, ai dám ngăn cản ngươi?”
Trác Cuồng Sinh đáp: “Ta há lại là người không kể đến giang hồ nghĩa khí như vậy? Vả lại, ta tự vấn chạy không nhanh bằng hai tiểu tử này, sợ rằng làm chậm hành trình của bọn họ.”
Hồng Tử Xuân kinh ngạc: “Nguyên lai ngươi cũng biết tự lượng, cũng biết suy nghĩ đối nhân xử thế.”
Trác Cuồng Sinh thở dài: “Ta không có tâm tình cười nói với ngươi. Thật không hiểu rõ bản thân mình. Tại sao trong bao cuộc đại chiến trước đây ở Biên Hoang tập lại chưa bao giờ sinh ra cảm giác chán ngán đối với chiến tranh giống như thời khắc này? Thật là cổ quái.”
Hướng Vũ Điền điềm đạm: “Bởi vì chiến tranh trước đây ở Biên Hoang tập đều là bảo vệ Biên Hoang tập mà chiến đấu, có tính chất không giống với cuộc chiến hôm nay, mà chiến tranh chính là trò chơi xem ai có thể chịu đựng được. Ngủ một đêm thật tốt, ngày mai thì cảm giác của ngươi sẽ khác.”
Tiếp đó gã nói với Yến Phi: “Khởi hành thôi!”
Yến Phi nói: “Tất cả y theo kế hoạch mà làm, chú ý coi chừng Mộ Dung Thùy có thể phái người phục kích các ngươi. Hắn ta là kẻ kiên cường, tuyệt sẽ không bị một trận thua làm dao động, mà trên tay hắn vẫn có thực lực đầy đủ, có thể phản kích lại chúng ta.”
Nói xong cùng Hướng Vũ Điền chạy như bay xuống sườn núi.