Thuật Tâm Lý Chiến
Khoái Ân và Lưu Mục Chi đi bộ rời khỏi phủ Thái thú, chỉ có hơn mười thân binh đi theo hộ vệ, những vệ sĩ này không phải huynh đệ đến từ Đại Giang bang, mà vốn là người thuộc Chấn Kinh hội, ai nấy đều một dạ trung thành đáng tin cậy, lại thêm võ công cao cường.
Bất kỳ hành động quân sự nào tại khu vực này, quan trọng nhất chính là bảo mật, nếu như để lộ đôi chút tin tức, thì kế sách dự định ắt sẽ không còn linh nghiệm. Hơn nữa, mỗi một người nào ở đây cũng đều có thể là bộ phận tín đồ Thiên Sự đạo, nên công việc bảo mật lại càng không thể có gì sơ suất. Vì vậy theo lời đề nghị của Lưu Mục Chi, hai người đều thay đổi phục trang thông thường của Bắc Phủ binh, nhìn sơ qua chỉ như một đội quân đi tuần thông thường không hơn không kém, quyết không thể nào phát hiện ra được một hành động quyết định thắng bại của hai bên quân tham chiến chính đang được từng bước triển khai.
Lúc này trời đã tối muộn, trên đường không thấy bóng người qua lại, chỉ vang lên tiếng ủng quân của đoàn người đạp lên mặt đất, bầu không khí yên lặng trang nghiêm mà xơ xác tiêu điều. Gió lạnh thét gào.
Khoái Ân thấy Lưu Mục Chi có dáng vẻ như thể đang có tâm sự gì, nhịn không nổi bèn hỏi: “Tiên sinh không biết có phải là đang lo nghĩ cho hành động lần này không?”
Lưu Mục Chi mỉm cười: “Ta hoàn toàn tin tưởng vào Khoái tướng quân, chỉ nhìn tướng quân sau khi Lưu soái rời khỏi, lập tức điều ba ngàn tinh kị ra ẩn nấp tại các chỗ bí mật ở khu vực lân cận, là biết được Khoái tướng quân đã sớm dự kiến được trước tình thế ngày hôm nay. Ba ngàn tinh kị này được nghỉ ngơi dưỡng sức, thanh thế cực thịnh không gì cản nổi, so ra há Thiên Sư quân mệt mỏi kiệt sức, sĩ khí sa sút lại có thể chống cự được sao?”
Khoái Ân ngạc nhiên hỏi: “Vậy tiên sinh còn phải nhọc lòng hao tổn tâm cơ vì chuyện gì nữa?”
Lưu Mục Chi đáp: “Điều ta nghĩ đến chính là vấn đề làm thế nào thu thập được cục diện hỗn loạn sau khi đánh bại Từ Đạo Phúc. Nếu quả Tôn Ân không phải đã mất mạng trong tay Yến Phi, thì vấn đề khiến ta phải đau đầu sẽ còn nhiều hơn nữa.”
Khoái Ân cười khổ: “Phương diện này phải nhờ cậy vào tiên sinh rồi, ta thực nghĩ không ra được biện pháp nào cả.”
Lưu Mục Chi vui vẻ nói: “Ngươi có thể nhận ra đây là một vấn đề khó khăn, thì đã là hết sức hiếm có rồi. Từ sau khi Thiên Sư đạo nổi dậy, Tấn thất vẫn không có cách nào nhìn rõ được điểm trọng tâm của vấn đề, chỉ coi Thiên Sư quân là bọn loạn dân tặc tử, phương pháp đối phó với bọn họ chỉ có dùng vũ lực trấn áp, xét trên phương diện đối sách thì đã là sai lầm tuyệt đối.”
Lại tiếp tục kể sơ qua: “Tôn giáo không bàn đến lý trí, chỉ bàn đến lòng tin, cho dù lòng tin có hoàn toàn đối lập với sự thật, cũng sẽ chỉ chọn lòng tin mà bỏ qua sự thật, kết cục khiến cho tín đồ biến thành những kẻ sùng bái, đi theo một cách mù quáng. Đương nhiên niềm tin cũng có mức độ khác nhau, nhưng trên cơ bản vẫn là như vậy, bằng không đã không là tín đồ. Như tôn giáo kiểu Thiên Sư đạo này, ảnh hưởng của kẻ đứng đầu thành lập có tính then chốt, như Trúc Pháp Khánh của Di Lặc giáo, Tôn Ân của Thiên Sư đạo, sức hấp dẫn cá nhân của lĩnh tụ trực tiếp ảnh hưởng đến tín ngưỡng của tín đồ.”
Khoái Ân buồn bã nói: “Ta thực không hiểu nổi, trong khi cái chết của Trúc Pháp Khánh dẫn tới sự sụp đổ của Di Lặc giáo, thì hiện tại Tôn Ân rõ ràng đã chết, thế mà lại tạo nên một tình huống khác hẳn, thật khiến người nghĩ hoài mà không ra. Những lời như rẽ nước lên cõi tiên gì gì đó, tất cả mọi người trong lòng đều ngầm biết rõ là lời nói bịa đặt để dối gạt người, không ngờ lại có nhiều kẻ ngu si đần độn vẫn hoàn toàn tin tưởng mà không chút nghi ngờ như vậy.”
Lưu Mục Chi đáp: “Lòng người rất kỳ quái, Khoái tướng quân không hiểu được bọn họ, tất cả là do suy nghĩ và mong muốn của Khoái tướng quân khác biệt so với bọn họ, đây gọi là sự bất đồng của lòng người. Không có người nào lại cho rằng lòng tin mà bản thân lựa chọn là sai lầm cả, bằng không căn bản sẽ chẳng giữ mãi không buông niềm tin đó. Khi bất giác gặp phải sự xung kích của hiện thực, cảm nhận được giữa bản thân sự thật và lòng tin mình kiên trì theo đuổi có mâu thuẫn đối lập, thì lựa chọn của phần lớn người, tuyệt không phải là sửa chữa lòng tin của bản thân, mà là nghĩ cách bài trừ không thèm lý đến mâu thuẫn, chỉ chọn tin tưởng những chuyện mình muốn tin mà thôi. Nhưng nỗi hoài nghi lại vẫn ẩn tàng trong tận đáy lòng, đây là bản tính của con người. Chỉ cần Khoái tướng quân lợi dụng tốt điểm này, không những có thể dễ dàng thắng lợi trận này, mà còn có thể đạt được lợi lớn trong việc quản lý và cai trị mai sau.”
Khoái Ân khiêm tốn hỏi: “Thuật tâm lý chiến này, xin thỉnh tiên sinh chỉ điểm cho.”
Lưu Mục Chi ung dung đáp: “Hiện tại điều khiến cho tín đồ Thiên Sư đạo hoài nghi nhất, chính là Tôn Ân rốt cuộc đã rẽ nước lên cõi tiên, hay là đã bị Yến Phi chém chết rồi? Nói dông dài trên trời dưới biển trên chiến trường là không có khả năng, nhưng hô hào khẩu hiệu, lại là có lợi chứ không có hại. Nếu như trong lúc quân ta giao chiến với Thiên Sư quân, đồng thanh hô to “Tôn Ân đã chết”, đối phương ít nhiều cũng sẽ chịu ảnh hưởng, khẳng định có thể thu được hiệu quả kỳ diệu.”
Lúc này bọn họ vừa mới tới được con đường ra vào thành, thủ quân gác cửa vội vã mở rộng cổng thành, để cho bọn họ đi qua.
Khoái Ân hô tuyệt ngợi khen: “Đề nghị của tiên sinh khẳng định sẽ có tác dụng, nếu đổi ta là Thiên Sư quân, nghe được câu này, sĩ khí khẳng định phải chịu nhiều đả kích.”
Mọi người đi ra đến cuối cây cầu treo nơi con hào bảo vệ ngoài thành, thấy có một đội nhân mã khác đang kính cẩn chờ đợi, ở bên cạnh có hơn mười con ngựa không có người cưỡi, để cho đám người Khoái Ân cưỡi thay vì phải đi bộ.
Lưu Mục Chi vuốt râu mỉm cười: “Ta tiễn Khoái tướng quân đến đây thôi, chúng ta không chỉ có thể hô to khẩu hiệu “Tôn Ân đã chết” trên chiến trường, mà còn có thể treo cao các tấm biển hiệu viết “Tôn Ân đã chết” tại chỗ giao nhau của các con đường. Việc này giao cho ta phụ trách, Khoái tướng quân xin cứ yên tâm xuất chinh, cũng chúc Khoái tướng quân trận này đại thắng trở về.”
Khoái Ân cung cung kính kính thi hành quân lễ với Lưu Mục Chi, tiếp đó dẫn đám thủ hạ vượt qua cầu treo, lên ngựa phóng đi.
Thành Huỳnh Dương.
Tuyết cuối cùng cũng đã ngừng rơi. Sau khi tuyết ngừng chưa được nửa thời thần, Kỷ Thiên Thiên và Tiểu Thi dưới sự hộ tống của Phong Nương, bước lên xe ngựa, rời khỏi hành cung của Mộ Dung Thùy, chạy trên con đường dẫn đến cửa thành.
Cửa xe buông rủ xuống một bức rèm dày, có lẽ chỉ là để chống rét, nhưng Kỷ Thiên Thiên lại phát sinh cảm giác bị vây trong bóng tối mông muội mơ hồ, chỉ nghe được tiếng vó ngựa truyền lại từ bốn phía xung quanh, nhưng không biết nổi mình đang ở chỗ nào, cũng không biết được mình phải đi đến đâu.
Phong Nương nhắm mắt dưỡng thần, thần sắc lạnh lùng, tựa như không thèm để ý chút nào đến những việc đang phát sinh, cũng không quan tâm tương lai sẽ phát sinh ra sự kiện dạng nào.
Tiểu Thi sớm đã mệt mỏi không chịu nổi, ôm lấy chăn ngủ ngon trên chỗ ngồi.
Kỷ Thiên Thiên đổi lại không thấy buồn ngủ chút nào cả, trong lòng trào dâng lên một nỗi sợ hãi không tên.
Nàng hơi có cảm giác lịch sử lặp lại, mà đây chính là nguyên nhân khiến tâm trạng của nàng lo lắng không yên. Tựa như lúc tác chiến cùng Mộ Dung Vĩnh vậy, Mộ Dung Thùy mang theo chủ tỳ bọn nàng lúc dừng lúc đi, khi nhanh khi chậm, sáng ẩn tối đi. Đột nhiên lại xảy ra quyết chiến, đánh cho Mộ Dung Vĩnh đối thủ mạnh nhất Mộ Dung Tiên Ti tộc vĩnh viễn không thể trở mình được nữa, nàng thực sự sợ tình huống giống như vậy lại xảy ra đối với liên quân Thác Bạt tộc và Hoang nhân.
Đáng giận là nàng ngay cả tình huống hiện giờ của bản thân cũng không nắm rõ, sau khi ra khỏi thành Huỳnh Dương hướng Đông hay hướng Tây cũng khó có thể phân biện được, thì làm sao có thể truyền được tin tình báo chính xác cho Yến Phi?
Trong tình huống lo lắng như có lửa đốt trong lòng lúc này, nàng căn bản không có cách nào ngủ được, hỏi còn làm sao có thể mộng gọi ái lang, để chàng chia sẻ bớt mối lo âu với nàng?
Bến cảng của tiểu Kiến Khang đèn đuốc sáng trưng, ba mươi lăm thuyền hàng chất đầy lương thực, binh khí và cung tên đang neo lại tại bến, chuẩn bị nhổ neo rời bến. Đây có lẽ là lượt thuyền đội vận chuyển lương thực cùng vật liệu tới Hồ thành cuối cùng trước khi khai chiến, do bốn chiếc Song Đầu hạm mới chế tạo hộ tống, phụ trách việc này là Phí Nhị Phiết và Đinh Tuyên.
Hoang nhân ven bờ vui vẻ đưa tiễn, thể hiện sự đoàn kết nhất trí của Hoang nhân trong hành động ứng cứu chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên. Thành viên nghị hội tất cả đều đứng vào hàng ngũ những người đưa tiễn, càng khiến tâm trạng háo hức của Hoang nhân dâng cao thêm, bầu không khí như đang sục sôi nồng cháy.
Thác Bạt Nghi rình lúc không ai chú ý bèn kéo Đinh Tuyên sang một bên, rút từ trong ngực ra một ống trúc được gắn xi phong kín, nói: “Ống trúc này, ngươi phải tự mình giao tận tay cho tộc chủ, báo với ngài là bên trong có giấu tin tức cực kỳ quan trọng do Yến Phí truyền tới từ Kiến Khang, ngàn vạn lần phải lưu tâm bảo quản, không cho phép được để xảy ra sơ suất.”
Đinh Tuyên nghi hoặc giấu ống trúc vào trong túi, ngạc nhiên hỏi: “Nghe giọng điệu của đương gia, tin tức trong ống ắt phải có quan hệ với Mộ Dung Thùy, nhưng Yến Phi làm sao có thể tại Kiến Khang mà có được tin tình báo ở Bắc phương?”
Thác Bạt Nghi cảm thấy nỗi khổ phải giải thích cho người khác giống như lúc Yến Phi phải đối diện với vấn đề loại này, đành trả lời qua loa lấy lệ: “Việc này khúc chiết li kỳ, khó có thể một lời mà kể hết được, sau này có cơ hội ta sẽ nói cho ngươi hay!”
Đinh Tuyên cau mày hỏi: “Nếu như tộc chủ truy hỏi đến cùng, thì ta biết trả lời ngài như thế nào bây giờ?”
Thác Bạt Nghi lãnh đạm đáp: “Tộc chủ sẽ không hỏi ngươi dù chỉ nửa câu.”
Đinh Tuyên cảm thấy vô cùng kinh ngạc.
Thác Bạt Nghi vươn tay nắm chặt hai vai y, thành khẩn nói: “Sau khi đến được Bình Thành, ngươi hãy lưu lại bên cạnh tộc chủ, làm người liên lạc giữa hai quân chúng ta, hết lòng vì tộc chủ hành sự, tộc chủ ắt sẽ trọng dụng ngươi.”
Đinh Tuyên ngẩn ngơ hỏi: “Lưu lại đó à? Điều này…”
Thác Bạt Nghi buông tay, vỗ vỗ vai y nói: “Biên Hoang tập trước sau vẫn không phải chỗ ở lâu dài của ngươi, sau khi đánh bại Mộ Dung Thùy, chỗ có thể cho ngươi cơ hội phát triển sở trường là Bắc phương chứ không phải Biên Hoang tập. Ở thư hàm bên trong ống trúc, ta đã mượn danh nghĩa của Yến Phi tiến cử ngươi cho tộc chủ. Trong thiên hạ nếu như có một người có ảnh hưởng đối với tộc chủ, thì người ấy chính là Yến Phi, hiểu rõ chưa? Ngàn vạn lần chớ có bỏ lỡ cơ hội này.”
Đinh Tuyên hai mắt ửng đỏ, cảm động nói: “Đương gia!”
Thác Bạt Nghi mỉm cười nói: “Mấy lời thừa thãi không cần phải nói ra, ta và Biên Hoang tập đều không có tiền đồ, do người tiến cử ngươi là Yến Phi, nên bất luận trong tình huống nào đi chăng nữa, tộc chủ cũng sẽ đều trọng đãi ngươi. Ngươi tự mình xem tình huống mà liệu, nếu như phát giác được khó lòng có được thành tựu lớn, thì hãy lui về ẩn khuất chốn sơn lâm, cưới vợ sinh con, sống qua những ngày tháng tươi đẹp sung sướng.”
Đinh Tuyên nói: “Nhưng mà Yến gia…”
Thác Bạt Nghi cắt lời y nói: “Yến Phi là hạng người nào, mọi người đều biết rõ, ta sẽ tự mình nói chuyện với y. Đi đi! Trên đường nhớ cẩn thận một chút.”
Lúc này hai bên bờ vang lên tiếng hoan hô tựa như sấm dậy, hóa ra là hai chiếc Song Đầu hạm đi trước dò đường chính đang tiến lên từ phía hạ du, Phí Nhị Phiết đứng trên đài chỉ huy, uy phong lẫm liệt hướng về phía huynh đệ tỷ muội Hoang nhân đang reo hò hai bên bờ mà vẫy tay đáp lễ.
Thác Bạt Nghi thúc giục: “Lên thuyền đi!”
Đinh Tuyên vỗ vỗ ống trúc trong ngực, nói: “Ta tuyệt sẽ không phụ lòng ủy thác của đương gia.”
Nói xong lên thuyền rời đi.
Mộ Dung Chiến đến bên cạnh Thác Bạt Nghi, ngạc nhiên nói: “Vẻ mặt của Đinh Tuyên vì sao lại cổ quái như vậy, chuyến vận chuyển bằng thuyền đợt này ắt sẽ không có gì nguy hiểm, bằng vào thực lực thủy quân của Mộ Dung Thùy hiện giờ, căn bản không có cách nào làm gì được chúng ta.”
Thác Bạt Nghi vươn tay khoác lên vai Mộ Dung Chiến, cười nói: “Chúng ta đi uống rượu đi? Ta mời.”
Mộ Dung Chiến vui vẻ nói: “Cung kính không bằng tuân lệnh, tìm thêm vài người nữa cho thêm phần náo nhiệt, được không?”
Trong tiếng cười giòn dã, hai người cùng nhau tiến về phía Dạ Oa Tử.
Lưu Dụ ngồi xuống tại mép giường. Sau khi bận rộn cả ngày, gã cuối cùng cũng có thể yên tĩnh cảm thụ cái tư vị được ngồi một mình trong phòng.
Trong bóng tối nơi phòng ngủ, gã phát sinh cảm giác nặng nề trầm trọng, thứ cảm giác ấy thật khó có thể hình dung ra được.
Gã hiện tại đã trở thành vị đại thống lĩnh tự lập của Bắc Phủ binh, trên vai vác gánh nặng trừ bỏ loạn đảng do Hoàn Huyền cầm đầu, trong tay nắm trọn vận mệnh của toàn bộ Nam phương, thế nhưng gã lại tuyệt không cảm thấy được gã lúc này có gì khác biệt với một Lưu Dụ trước kia. Gã vẫn là cái gã Lưu Dụ trước đây, giống như một người thông thường có quá khứ, hiện tại và tương lai, có thất tình lục dục, hỉ nộ ai lạc, không nhiều không kém một phân.
Gã tỉnh ngộ được rằng bất luận gã có nằm ở vị trí nào chăng nữa, tất cả vẫn chỉ là gã như xưa. Trong đầu gã lóe lên vô vàn suy nghĩ, vừa bao hàm nỗi thống khổ, lại vừa xen lẫn hy vọng. Gã có chút không dám nghĩ tới Vương Đạm Chân hay Giang Văn Thanh. Đạm Chân khiến gã phát sinh cảm giác áy náy như bị muôn ngàn mũi dùi đâm vào tim không sao chịu nổi, còn Văn Thanh lại khiến gã cảm thấy có lỗi với nàng vì đã tiếp nạp Nhậm Thanh Thị.
Cuộc đời sao lúc nào cũng cứ khiến cho người có cảm giác bất lực đành chịu như vậy chứ?
Bản thân dẫu có thể từng bước một bước lên ngai vàng của Hoàng đế, nhưng việc đã phát sinh lại không có cách nào thay đổi được nữa, nỗi hối hận trong lòng sẽ mãi còn làm bạn với gã. Nếu như nói có lựa chọn khác, gã sẽ chọn sau khi diệt trừ Hoàn Huyền xong, sẽ thoái lui khỏi cái vị trí khiến gã phải lao tâm khổ tứ, mệt mỏi rã rời này để mà quay trở về Biên Hoang tập, làm một Hoang nhân vô công rồi nghề mà nằm dài hưởng thụ.
Lúc nhàn rỗi thì cùng ngồi uống Tuyết Giản Hương với Yến Phi trên hành lang của Đệ nhất lâu, nghe Thiên Thiên gảy đàn ca hát; lúc buồn chán thì có thể đến Thuyết thư quán của Trác Cuồng Sinh, nghe những mẩu thuyết thư được khuếch trương thổi phồng của lão, ôn lại những năm tháng “Nhất tiễn trầm ẩn long”. Hoặc là lang thang dạo quanh Dạ Oa Tử, thưởng thức những gánh tạp kỹ rong đến trình diễn những kỷ xảo trăm kỳ ngàn quái tại quảng trường Chung Lâu. Đây mới là một cuộc sống sống động có máu có thịt.
Thế nhưng gã hiểu rõ hơn ai hết, gã sẽ không thể nào tự lựa chọn phương thức sinh hoạt trong tương lai cho chính bản thân mình được nữa. Con đường trở thành Hoàng đế, là con đường không thể nào quay đầu trở lại.
Lưu Dụ ngầm thở dài một hơi, vẫn cứ đi nguyên ủng như vậy mà nằm vật ra giường.
Đã hết cả rồi! Quãng đường tranh bá Nam phương của gã có thể nói là đã bắt đầu, còn cuộc sống nhàn nhã lúc gã mới bước chân vào giang hồ đã hoàn toàn kết thúc. Gã đã mất đi tự do của mình.
Cái cuộc sống đó thật khiến người hoài niệm biết bao! Tương lai gã hoàn toàn không đoán ra nổi, ngay cả hy vọng chân thực nhất cũng có thể tùy lúc mà biến thành bọt nước, đường cùng lại có thể xuất hiện. Mà chính là cái loại cảm giác trôi nổi thăng trầm, không sao nắm rõ được vận mệnh trong tay này càng khiến gã thêm cảm nhận được một cách sâu sắc những vui khổ của sinh mệnh con người.
Gã của hiện tại, mỗi một bước hành động đều phải suy nghĩ cặn kẽ, tường tận, giống như đang chơi cờ, đối thủ trước mắt là Hoàn Huyền, mà gã chỉ có thể tuân theo đường lối bản thân đã xác định trước để đưa ra mỗi một nước đi, có đôi chút giống như gã đã biến thành kẻ tù tội trong cái nhà ngục suy tưởng của chính bản thân gã.
Những suy nghĩ này cứ liên tiếp cái này dứt cái kia lại nối tiếp, gã hiện giờ cảm thấy thật mù mờ, trống rỗng. Những luồng gió lạnh ban tối vù vù ùa vào phòng, nhưng gã lại chẳng còn lòng dạ nào để kéo chăn đắp lên người, trong lồng ngực con tim cứ nặng nề thình thịch thình thịch đập, hô hấp cũng có chút khó khăn không dễ chịu.
Gã đã biết rõ rằng, đến ngày mai tỉnh lại, lúc đối mặt với các tướng lĩnh Bắc Phủ binh vốn chỉ biết theo lệnh mà làm, gã chỉ có thể hiển lộ ra mặt anh minh thần võ nhất với bọn họ, khiến bọn họ cảm thấy đang đạp bước trên con đường dẫn thẳng đến thắng lợi cuối cùng dưới sự lãnh đạo của Lưu Dụ gã.
Tạ Huyền lúc ở một mình vào cái đêm trước cuộc chiến Phì Thủy năm đó, liệu có những cảm giác tương tự như vậy hay không?
Sau khi đánh bại Hoàn Huyền, sứ mệnh của gã tuyệt không vì vậy mà kết thúc, mà hãy còn lý tưởng Bắc phạt để thống nhất thiên hạ, đây là kỳ vọng của Tạ Huyền đối với gã, cũng là kỳ vọng của toàn bộ người Nam phương đặt vào gã. Từ góc độ này mà nhìn, gã quả thực đã mất đi tự do sống cho riêng bản thân mình, gã cũng không còn thuộc về chính bản thân gã nữa.
Cảm giác mệt mỏi trong lòng đột nhiên kéo đến, Lưu Dụ nặng nề chìm dần vào giấc mộng, chỉ duy nhất cách này mới có thể khiến gã quên đi được hiện thực.
Khoái thuyền rời khỏi hòn đảo nhỏ, cưỡi gió rẽ sóng mà tiến thẳng tới Ba Lăng. Điều khiển thuyền là bốn huynh đệ Lưỡng Hồ bang, bọn họ đối với Động Đình hồ nắm rõ như lòng bàn tay, muốn âm thầm tiến vào thủy vực của Ba Lăng là chuyện dễ như trở bàn tay.
Ba người Trác Cuồng Sinh, Cao Ngạn và Diêu Mãnh đang ngồi ở giữa thuyền, tâm tình bất giác khẩn trương hẳn lên.
Diêu Mãnh nặng nề thở dài một hơi: “Con bà nó, nếu như đụng độ thuyền địch, chúng ta rốt cục nên lập tức nhảy ngay xuống nước mà chuồn đi, hay là nhảy đại lên thuyền mà đại chiến một trận?”
Trác Cuồng Sinh giận dữ nói: “Bây giờ là lúc nào chứ? Đối phương đang đốt đèn sáng choang, chỉ cần nhìn thấy từ xa, thì chúng ta có thể may mắn tránh được rồi. Con mẹ nó chứ! Ngươi cho là chúng ta đi công thành chắc? Chúng ta hiện đang tiến hành hành động ám sát, chỉ cần tiêu diệt được bất kỳ kẻ nào trong hai tên Chu Thiệu và Mã Quân, thì sẽ có thể khiến lòng quân của địch nhân đại loạn, biết được chúng ta không phải loại dễ trêu vào.”
Diêu Mãnh hoài nghi hỏi: “Tin tình báo của Cao tiểu tử không phải lúc nào cũng đều chuẩn xác, nếu quả tối mai Mã Quân không đến Tiên Nguyên lâu nổi danh nhất Ba Lăng, thì chúng ta không biết còn phải đợi bao lâu nữa?”
Cao Ngạn giận dỗi mắng: “Ta cung cấp cho ngươi tin tình báo không chuẩn lúc nào? Cái tên chết nhát nhà ngươi chứ! Bản thân sợ sệt nên cứ ăn nói quàng xiên, lại còn chỉ trích ta không đúng. Toàn nhờ ta nhìn ra Mã Quân là một tên quỷ háo sắc, nên đã bố trí tai mắt dày đặc ở các đại thanh lâu tại Ba Lăng, nên mới biết được Mã Quân sai người đến đặt phòng tại Tiên Nguyên lâu, lại còn chỉ định phải do Tiểu Hoa Hoa ca kỹ đang được ưa chuộng nhất hầu rượu. Con bà ngươi, đã không tán tụng ta tinh minh, lại còn đi nghi ngờ độ chính xác của tin tức do ta cung cấp.”
Trác Cuồng Sinh bực mình quát: “Không cần phải cãi cọ nữa! Hai ngươi cãi nhau làm ta cũng loạn hết cả lên rồi đây này.”
Đoạn cười nói: “Thực ra vấn đề nằm ở chỗ ba người chúng ta đều chưa từng làm thích khách, nếu có Yến Phi ở đây, chúng ta căn bản không cần lo lắng gì nữa.”
Diêu Mãnh có chút cảm khái: “Cái tên quái quỷ tiểu Phi ấy thực khiến người phải nghĩ tới mà.”
Cao Ngạn cười nói: “Đây gọi là Thục trung vô đại tướng, Liêu Hóa kháng tiên phong*: Con bà nó! Có biện pháp gì không? Trước mắt nếu luận võ công, thì ba người chúng ta là mạnh nhất, việc trà trộn vào chỉ có thể do chúng ta thực hiện.”
Trác Cuồng Sinh gắt: “Nếu chỉ luận võ công, Tiểu Bạch Nhạn so với ngươi còn cao minh hơn nhiều. Thực không thể hiểu nổi ngươi vì sao lại không để cho Tiểu Bạch Nhạn cùng đi làm thích khách.”
Cao Ngạn cười khổ: “Tất cả là vì nàng chưa từng giết người bao giờ, ta cũng không muốn ngọc thủ của nàng vấy máu, nên đành phải nhẫn nhịn buồn khổ mà tạm biệt nàng chốc lát.”
Diêu Mãnh giật mình cả kinh: “Không ổn rồi! Phía trước mặt có ánh đèn.”
Một người trong đám huynh đệ Lưỡng Hồ bang đang điều khiển thuyền đáp lời: “Bẩm cáo Diêu gia, đấy chỉ là ánh đèn của Ba Lăng thôi ạ.”
Trác Cuồng Sinh và Cao Ngạn không nhịn nổi đồng thanh cười ồ lên.
Diêu Mãnh đành ho mấy tiếng để che giấu bớt sự ngượng ngùng bối rối, đoạn hùng hồn nói: “Đây gọi là có tinh thần cảnh giác cao, có gì hay mà cười chứ, cẩn thận chút mới đúng mà!”
Cao Ngạn cố nhịn cười: “Thích khách sợ bóng sợ gió, tự mình nhát mình giống như ngươi quả là thiên hạ hiếm có, thực hối hận khi đã rủ ngươi đi cùng!”
Trác Cuồng Sinh nói: “Không cần phải cười tiểu Diêu nữa! Việc thích sát ngày mai phải thật nhanh, độc, chuẩn, một đòn không trúng, phải lập tức thoái lui, chớ có hủy hoại uy danh của Hoang nhân chúng ta, bằng không thiên thư của ta sẽ để lại một vết nhơ.”
Cao Ngạn hít một hơi thật sâu, nói: “Ta sẽ ở cạnh bên hai vị đại ca mà phất cờ hò reo cổ vũ, đến lúc đó xin thứ cho kẻ hèn này muốn giúp cũng không được, bởi vì ta cũng chưa từng giết người bao giờ. Ha!”
Trác Cuồng Sinh và Diêu Mãnh nghe xong ngơ ngác nhìn nhau, không nói nên lời.
Chú thích:
Text được lấy tại TruyệnFULL.vn
* Nghĩa là nước Thục không có đại tướng nên Liêu Hóa phải làm tướng tiên phong. Câu này là một câu tục ngữ bàn về nước Thục giai đoạn Tam Quốc dân số ít ỏi, nhân tài thưa thớt nên phải để Liêu Hóa một tướng võ nghệ nhị lưu làm tiên phong.
Lạm bàn: Liêu Hóa tự Nguyên Kiệm, thực sự là một con người trung trinh không thay đổi. Thời Tam Quốc, đi theo Quan Vũ Bắc phạt cũng làm tiên phong đi đầu, lúc mất Kinh Châu, Quan Vũ bị hãm tại Mạch Thành, cũng chính Liêu Hóa một mình một ngựa đột phá vòng vây đi cầu viện binh, rồi cũng chính ông chỉ mặt Lưu Phong thấy chết không cứu mà chửi. Đến khi Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn lần thứ sáu, bày mưu tính kế, cũng chính Liêu Hóa uy phong lẫm liệt một mình một ngựa đuổi chém Tư Mã Ý nơi Thượng Phương Cốc. Về sau lại giúp Khương Duy chín lần đánh Trung Nguyên, cũng nhiều lần làm tướng tiên phong, trải qua gần như toàn bộ quá trình hưng suy của thời Tam Quốc. Thực sự nói Liêu Hóa không có tài là chỉ so sánh với ngũ hổ tướng của Thục mà thôi. Chứ nếu bảo chuyện ông làm tiên phong là ám chỉ nước Thục không có nhân tài thì cũng hơi bất công cho ông.