Hai ngày tiếp đó, Yến Phi vì để tránh gặp trục trặc nên không ra khỏi nhà. Mỗi ngày hai canh Tý, Ngọ cứ y theo lời Độc Tẩu mà tiến dương hỏa thoái âm phù. Hai lần đầu không có hiện tượng và hiệu ứng rõ rệt gì, đến lần thứ ba y theo quyết pháp hành công, lúc tiến dương hỏa không ngờ Đan Điền sinh hàn khí, lúc thoái âm phù lại cảm thấy hơi khí mờ mịt, tựa hồ tương phản với tình huống Độc Tẩu dự cáo, ngặt là trước kỳ hạn ba ngày không dám làm trái ý muốn của quái lão đầu chính tà khó phân kia, chỉ còn nữa nhẫn nại, tới lúc gặp hãy hỏi lão, nhưng đối với chuyện hành công không dám xao lãng.
Hôm đó trời vừa hừng sáng, trong viện tiếng người huyên náo, thấp thoáng nghe thanh âm cãi nhau của Lương Định Đô và Cao Ngạn, không khỏi lắc đầu cười khổ, từ khi thụ thương tỉnh lại, chàng lần đầu tiên nghe được thanh âm của Lương Định Đô, chắc gã đã mạnh khỏe, lại không biết tại sao đến đây xào xáo với Cao Ngạn.
Thị tỳ Tiểu Kỳ vừa tiến vào, thấy chàng liền cười tươi như hoa, vui vẻ nói: “Công tử hôm nay sắc mặt rất tốt, tinh thần dồi dào, đôi mắt sáng quắc, có vẻ giống như Tống gia vậy”.
Yến Phi nghĩ thầm rất có thể Tý Ngọ quyết của Độc Tẩu thật sự có công hiệu, đối với ước hẹn sớm mai càng thêm lòng tin. Vừa để Tiểu Kỳ hầu chàng rửa mặt, vừa hỏi: “Bên ngoài xảy ra chuyện gì vậy?”.
Tiểu Kỳ châm phá: “Tiểu Lương qua gây lộn với Cao công tử, chỉ biết chửi rủa, Cao công tử chửi không ai bằng”. Thè lưỡi mặt ửng hồng nói tiếp: “Cao công tử tới khi nói bậy, không những mặt không đỏ mà ngữ khí còn trôi chảy hơn, thật giống như có huấn luyện, vừa mau miệng lại vừa làm cho người ta xấu hổ”.
Yến Phi cười nói: “Không phải là có huấn luyện, mà là thao luyện. Ở Biên Hoang Tập người hòa nhã ngăn địch là ta, còn lại toàn là kẻ miệng bự thô lỗ, nam nữ cũng như nhau. Khà!” Mỉm cười đi ra ngoài sảnh.
Tiểu Kỳ ở lại phòng dọn dẹp cho chàng, nhón giọng: “Cái gì mà nam nữ như nhau chứ? Thì ra Yến công tử cũng có thể châm chọc người ta!”.
Bước qua ngưỡng cửa, đi nửa vòng hành lang quanh đình viện, vượt ngoài ý liệu của chàng, Lương Định Đô đang đỡ Cao Ngạn, giúp hắn đi bộ, mười mấy phủ vệ tỳ bộc đứng một bên nghe Cao Ngạn chửi.
Lương Định Đô tay trái còn quấn thuốc, chửi: “Ngủ vùi hai ba ngày rồi không biết đi đứng, chân của ngươi còn tốt quá mà! Không cần cố kỵ nữa, bước tới chút nữa, hạ một bước mới ổn thỏa”.
Cao Ngạn không chịu yếu kém hồi kình: “Ngươi đâu có phải là ta, bước dài một chút là bao nhiêu gân cốt toàn thân đau kịch liệt, ngươi nói ta không muốn bước tới ngon lành hay sao chứ? Tên rùa đen mẹ bà ngươi!”.
Yến Phi không tưởng được hai người bỗng “tương thân tương ái” như vầy, có lẽ là vì đã từng vào sinh ra tử với nhau. Đối với “nỗ lực” của Cao Ngạn lại làm cho chàng cười thầm, là vì chàng đã nói cho Cao Ngạn biết Tạ An đã chịu cho chàng dẫn Cao Ngạn đi gặp Kỷ Thiên Thiên, điều kiện là Cao Ngạn cần phải đi đứng được, Cao Ngạn liền không từ đau đớn, mới sáng sớm đã nỗ lực cố gắng rồi.
Yến Phi chào hỏi bọn họ, cười nói: “Buông hắn ra!”.
Lương Định Đô ngập ngừng: “Tôi sợ hắn sẽ ngã liền, tiểu tử này nửa thân trên tuy còn là nam nhi, bên dưới lại có đôi chân mềm nhũn như đàn bà”. Đám người đứng nhìn lập tức phát ra tiếng cười rần rần.
Cao Ngạn bị cười đỏ mặt, giận dữ: “Về với mẹ ngươi đi, mau buông cha ngươi ra!”. Lương Định Đô mặt mày thần tình đắc ý chiếm thượng phong, dời sang một bên.
Cao Ngạn loạng choạng, cuối cùng đứng vững, hiển lộ thần sắc thắng lợi, cười khặc khặc: “Nhìn nè! Đỉnh thiên lập địa, để đôi chân này tự có công luận, may là Lương tiểu tử ngươi không phải đàn bà, nếu không ngươi phải đầu hàng cầu xin tha thứ rồi. Bất quá nếu có đàn bà nào mà xấu xí như ngươi, quỷ mới chịu theo”.
Lời nói của hắn tục tằn phi thường, đám phủ vệ bộc phó há miệng cười ầm ầm, ba tiểu tỳ đứng bên đỏ bừng mặt vì tiếng chửi cáu bực liên thanh. Tạ phủ chưa từng chiêu đãi người nào thô dã như Cao Ngạn.
Lương Định Đô cười nói: “Cái miệng chó của ngươi muốn nói gì không được, sao không thử đi hai bước xem xem! Ta còn phải về báo cáo với Tống gia. Hừ! Còn không biết nịnh nọt ta!”.
Yến Phi hiểu được Tống Bi Phong sợ thời gian liệu trị ngày mai có khi mất hết ba ngày, cho nên muốn an bài cho bọn họ tối nay đi gặp Kỷ Thiên Thiên.
Cao Ngạn vừa nghe, lập tức đổi sang bộ mặt khác, từ láo xược chuyển thành cung kính: “Lương tiểu ca đại nhân có lòng đại lượng, đâu có trách móc gì, đa tạ đã tha thứ”. Mấy lời đó liền kích động một trận cười nữa.
Cao Ngạn khẩn trương la lối: “Đừng có rùm trời!” Chú tâm nhìn tới trước, bước một bước quả nhiên vững chãi, không ngả nghiêng loạng choạng.
Cao Ngạn hùng dũng nhìn Lương Định Đô cười nói: “Xem đó! Lão tử bước đi đâu có vấn đề gì? Còn không mau lăn về báo cáo với Tống gia, an bài ước hẹn giai nhân tối nay?”. Lần này cả Yến Phi cũng không nhịn được cười, thêm vào tiếng cười của Tiểu Kỳ vừa mới ra xem nhiệt náo, đình viện ồn ào rân trời.
Lương Định Đô cố khoa trương biểu tình kinh ngạc, chỉ chân hắn lớn tiếng la: “Đó có thể gọi là đi hay sao? Cao công tử muốn đi đến đâu đây?”.
Tiểu Kỳ thấy Lương Định Đô làm tới, bất nhẫn nhìn Cao Ngạn chịu quẫn, xen vào: “Cao công tử so với hôm qua thì quả thật đã khỏe hơn nhiều!”.
Yến Phi mỉm cười đến bên Cao Ngạn, kéo cánh tay trái của hắn: “Hôm nay như vầy được rồi, về phòng nghỉ đi, miễn cưỡng làm cứng làm gì, ngươi cũng đâu có muốn Thiên Thiên tiểu thư thấy Cao Ngạn ngươi là kẻ què quặt phải không?”.
Tiểu Kỳ cũng nói: “Xương cốt chưa lành lặn hẳn dễ bị gãy lại lắm, tới lúc đó thì tốn thời gian rất lâu”.
Lương Định Đô đi đến bên Cao Ngạn, xin lỗi: “Ta chỉ là muốn khích lệ đấu chí của tiểu Cao ngươi, xem tình hình ngươi mạnh khỏe khang phục thật tốt hơn nhiều so với ta tưởng tượng”.
Yến Phi nghĩ thầm, tuy Lương Định Đô có thói quen xấu của đám nô tài trong nhà đại tộc, bản thân lại là người tâm địa lương thiện, hôm đó trong quán đã phấn đấu không ngần ngại thân mình cứu viện bọn họ. Chàng lại thấy Cao Ngạn mặt đỏ bừng cúi đầu, biết hắn đang gắng gượng chịu đựng đau đớn, không muốn để Lương Định Đô nhìn thấy, vội gạt Lương Định Đô ra: “Đi nói với Tống gia, đợi sau khi ta lo xong chuyện ngày mai rồi hãy quyết định thời gian thích nghi để tiểu Cao đi gặp giai nhân”.
Lương Định Đô dạ một tiếng nhận lệnh, cung kính đi ra.
Yến Phi hướng về phía những người khác phẩy tay cho lui, đỡ Cao Ngạn cà nhắc về sương phòng, ngồi xuống bên giường rồi, nước mắt của Cao Ngạn chảy ròng ròng, lại nín không khóc ra tiếng, gồng mình chịu trận.
Yến Phi trong lòng trào dâng lửa giận ngút trời, ngấm ngầm hạ quyết tâm, cho dù Vương Quốc Bảo có là thiên vương lão tử, một khi mình khôi phục là võ công tu vi, tất tìm gã thanh toán món nợ này cho Cao Ngạn.
Chàng lại lên giọng: “Ngươi không phải có nói mình là nam nhân đỉnh thiên lập địa đó sao? Sao bây giờ lại yếu đuối vậy? Động chút đã khóc như đàn bà con nít”. Cao Ngạn dứ dứ quyền tức tối: “Ta đập tổ tông mười tám đời của tên khốn đó! Thù này hận này, Cao Ngạn ta vĩnh viễn không thể quên”.
Yến Phi trầm giọng: “Nếu ngươi không trỗi mình khỏi nỗi khuất nhục, làm sao có tư cách báo thù?”.
Cao Ngạn nhấc tay áo chùi nước mắt, nấc nghẹn: “Ta chưa từng bị thê thảm như vầy!”.
Yến Phi cười khổ: “Ngươi vì ta mới lọt vào hoàn cảnh khổ đau như vầy! May là còn giữ được cái mạng nhỏ, chưa bị đánh thành tàn phế, cũng có thể coi là đại hạnh trong bất hạnh. Bộ ngươi tức tiểu Lương chọc quê ngươi sao?”.
Cao Ngạn lắc đầu: “Lương Định Đô tên tiểu tử đó lời nói tuy khó nghe, lại không có ác ý, hôm đó nếu không phải gã bất chấp sinh tử chịu khổ vì đại cục, bọn ta ngày nay khẳng định là không thể ngồi đây nói chuyện, ta tức là Yến Phi ngươi phải chịu nhục! Đổi lại là Yến Phi ở Biên Hoang Tập, bọn chúng đừng hòng có tên nào có thể toàn mạng. Ngươi ôm ta chịu đựng để bọn chúng đánh, ta có thể cảm thấy được lực đạo của mỗi một côn đập trên mình ngươi, nghĩ tới là ta muốn khóc liền, ta còn nghĩ ngươi nhất định phải chết nữa”.
Yến Phi trong lòng cảm động, trầm giọng: “Yên tâm đi, qua mấy ngày nữa ta có thể khẳng định nói với ngươi là mình thật ra tìm chỗ trốn hay là đường đường chính chính cùng người về Biên Hoang Tập đi đánh thiên hạ”.
Cao Ngạn giật mình quay phắt nhìn chàng.
Yến Phi ngầm hạ quyết định, bất luận phương pháp trị liệu Độc Tẩu đề xuất có hoang đường nguy hiểm đến cỡ nào, mình cũng phải thử, bất quá là đền bằng mạng, còn hơn là nhìn bằng hữu của mình chịu lăng nhục.
Ngoài Vong Quan hiên vầng trăng khuyết giắt trên không, chùm sao vây rọi, trong hiên chỉ có trản đèn dầu Tiểu Kỳ thắp đặt kề bên Tạ An, chiếu sáng một góc hiên, không khí an tĩnh đến mức có hơi khác thường.
Đến cửa hiên, Tống Bi Phong mời Yến Phi một mình vào trong. Yến Phi đi thẳng đến trước mặt Tạ An, Tạ An mới ngước đầu nhìn chàng, nhãn thần cực kỳ sắc bén, tựa như liếc một cái là có thể nhìn thấu lòng chàng.
Tiếp đó Tạ An vuốt râu cười nói: “Tiểu Phi khí sắc trong cái hung có ẩn tàng cái cát, khí tượng bỉ cực thái lai như vầy, ước hẹn ngày mai tuy có hiểm ách, tất có thể an nhiên vượt qua”.
Yến Phi bần thần ngồi xuống, tuy biết rõ Tống Bi Phong tất cần có sự cho phép của Tạ An thì mình mới có thể phó ước với Độc Tẩu, nhưng để ông ta vạch trần trước mặt, vẫn cảm thấy luống cuống.
Ngồi xuống cười khổ: “An công kêu tôi đến, không ngờ là muốn xem khí sắc cho tôi”. Tạ An châm trà cho chàng, mỉm cười: “Đó là một nguyên nhân, hy vọng ta còn chưa già, không nhìn sai khí sắc”.
Yến Phi song thủ nâng chén, để Tạ An châm trà vào.
Lúc đó nếu có người hỏi chàng trên thế gian người đáng tôn kính nhất là ai? Đáp án của chàng khẳng định là Tạ An, không còn nghi ngờ gì nữa.
Danh dự thiên hạ đệ nhất danh sĩ quả thật không phải là lời đồn bậy, bất luận là tấm lòng khí phách, tài tình học thức, cho đến từng chữ từng câu, từng cái nhấc tay từng cái gật đầu, đều làm cho người ta khâm phục.
Tạ An cùng chàng cạn một chén, vui vẻ nói: “Nói trắng ra, cảnh đẹp trời mát như vầy, ta thật không quen dùng trà thay rượu, bất quá tình huống của tiểu Phi đặc thù, lão phu chỉ còn nước tương tựu”.
Yến Phi bối rối: “Bọn ta có thể mỗi người uống một thứ”.
Tạ An thốt: “Đó đâu phải là đạo đãi khách. Đêm nay ta còn có một cuốn kỳ thư đem cho ngươi, mong người đừng thờ ơ bỏ qua nó, tính tình của ngươi gần giống ta, cuốn sách này sẽ có ích cho ngươi”.
Yến Phi thụ sủng khiêm tốn: “Chỉ sợ tôi bản tính ngu si lỗ mãng, học thức lại nông cạn, có khi phụ kỳ vọng của An công”.
Tạ An cười khà khà: “Tạ An ta có thể nhìn lầm người khác, lại không thể nhìn lầm Yến Phi”. Tiếp đó, trân trọng rút ra từ trong lòng một quyển sách trắng mỏng đã cũ đến mức phát vàng, hai tay cầm đưa cho chàng, đôi mắt hiện ra thần sắc ngưng trọng.
Yến Phi hoang mang đứng dậy cung kính tiếp lấy, chỉ thấy trên mặt sách viết năm chữ lớn “Chu dịch tham đồng khế”.
Thanh âm của Tạ An vang như tiếng trống bên tai chàng: “Ngươi từng nghe qua về quyển sách này chứ?”.
Yến Phi lắc đầu: “Chưa từng nghe tới”. Thuận tay lật ra, chỉ thấy viết: ” Càn khôn giả, dịch chi môn hộ, chúng quái chi phụ mẫu1″. Thấy vậy chàng giật nảy mình, đưa mắt nhìn Tạ An, lắp bắp: “Nhận thức của tôi đối với Chu Dịch rất nông cạn, khẳng định đọc một chỉ hiểu phân nửa”.
Tạ An nói: “Không hề gì. Những chữ nhỏ xíu trong sách là khảo thích chú giải của ta, ngươi lúc đầu đọc sẽ có hơi khó hiểu, rất mau chóng ngươi sẽ từ trong trầm mê nhận được hết tinh túy sâu xa. Ngươi cho dù khôi phục được nội công, nhưng cũng rất có khả năng phải cần nhiều thời gian công phu, quyển sách này sẽ trợ giúp được ngươi khi có chỗ nghĩ không thông, nếu có thể vì vậy mà đạt được thành tựu, sau này tương lai ra sao ta không dám nói, nhưng có thể khẳng định là từ trước tới giờ chưa từng có”.
Yến Phi cất kỹ sách vào mình, nói: “Quyển sách này có thể có dị năng kỳ hiệu như vậy, thật ra xuất xứ từ vị đại gia nào vậy?”.
Tạ An giải thích: “Quyển sách này do Ngụy Bá Dương, người Thượng Ngu, Cối Kê đã đem hết tinh lực cả đời sáng tác”.
Yến Phi giật mình: “Thì ra là y, người này được tôn sùng là đệ nhất Đan pháp đại gia toàn Lưỡng Hán, còn là đệ nhất cao thủ Đạo môn thời đó, không trách gì An công nói đây là kỳ thư”.
Tạ An thốt: “Ngươi đã biết Ngụy Bá Dương là thần thánh phương nào, chắc biết quyển sách này là một bảo tàng phong phú. Trong sách bao la ngàn vạn thứ, dựa vào ‘Chu Dịch’ và tư tưởng Đạo gia, bao quát gồm trọn tinh hoa của luyện đan thuật, y học, dịch học, vật hậu học, thiên văn lịch pháp2 thời Tiên Tần và Lưỡng Hán, đạt thành thể hệ Thiên – Địa – Nhân tam tài hợp nhất, hoàn toàn không hạn chế về võ thuật mà thôi. Hiện trong mình người là bản duy nhất trong thiên hạ, ta cũng hy vọng thông qua ngươi, sẽ đem nội dung phát dương quang đại, lưu truyền đời sau”.
Yến Phi biết không thể chối từ, hơn nữa trong lòng thật đã sinh hiếu kỳ và trông ngóng, nghiêm mặt nói: “Yến Phi tuyệt sẽ không để An công thất vọng”. Lại ngạc nhiên nói: “An công nếu muốn quyển sách này lưu truyền, sao không cho người sao chép thành nhiều bản, tặng cho nhiều người có kiến thức, không phải sẽ dễ dàng đạt được mục đích truyền bá sao? Ít ra còn lưu lại một bản cho mình”.
Tạ An điềm đạm thốt: “Không cần hỏi thêm, cuối cùng sẽ có một ngày ngươi hiểu thấu”.
Yến Phi im lặng một hồi, trầm giọng: “An công giọng nói buồn bã, có phải…”. Tạ An ra dấu ngăn chàng nói tiếp, mỉm cười: “Ta mới nhận được tin tức, Hoàn Huyền đã chính thức tấu thỉnh triều đình, muốn từ chức Đại tư mã mới vừa được gia phong”. Yến Phi ngẩn người: “Hoàn Huyền dã tâm lang sói, sao lại chịu buông bỏ quan chức mà y mộng cầu?”.
Tạ An vui vẻ: “Ngươi đối với Hoàn Huyền quả là nhận thức rất sâu xa, lại không biết rằng điều đó hiển thị đám thủ hạ của y có mưu sĩ xuất sắc phi thường, đây là kế ‘Nhất thạch nhị điểu’. Phương diện thực quyền đâu có bị ảnh hưởng gì, vừa có thể làm cho triều đình an tâm, lại vừa có thể khiến cho triều đình chuyển sang đối phó với Tạ gia ta. Phong quang của chiến thắng Phì Thủy vì vậy mà mất hẳn, một đi không trở lại. Ta đã quyết định đợi tiểu Huyền về tới là cùng hắn thương lượng xem lúc nào sẽ rời khỏi Kiến Khang”.
Yến Phi trong lòng thầm than, nói: “Cung hỉ An công!”.
Tạ An cười nói: “Ngươi chắc là người duy nhất mừng cho ta. Đi đi! Bi Phong đang ở ngoài cửa đợi ngươi, hy vọng lúc tái kiến ngươi, tiểu Phi của ta đã phục hồi hết công lực”.
Tống Bi Phong đi trước lẳng lặng dẫn đường, tiếng nước vỗ truyền đến từ đằng trước, quẹo ra con đường nhỏ trong rừng, thấy một bến tàu nhỏ, nước sông Tần Hoài chầm chậm thả mình, giữa cảnh đẹp nguyệt hoa tương tranh, sao giăng trùng điệp như lắp tràn bầu trời đêm sâu thẳm, bờ bên kia đèn lửa lấm chấm, tàu thuyền áp mạn dọc ngang, qua lại không ngừng.
Yến Phi đến Kiến Khang lâu như vậy, vẫn là lần đầu tiên cảm nhận được không khí lãng mạn rộn ràng của Tần Hoài hà. Thuở trước tuy đã từng đến Kiến Khang, lại chưa từng có ấn tượng hiện tại. Có khi là vì chia sớt sự ngưỡng mộ của Cao Ngạn đối với Tần Hoài hà đệ nhất danh kỹ Kỷ Thiên Thiên, làm cho nước sống Tần Hoài cũng thơm hơn.
Đột nhiên, nơi phải đến giờ phút này, ngay cả ước hẹn ngày mai quan hệ đến cả đời chàng, đều tựa hồ biến thành không còn quan hệ âu lo gì nữa.
Trên bến tàu có bốn người đang đợi, đỗ một chiếc thuyền nhỏ có buồm, nước sông vỗ vào thân thuyền, phát ra âm vang rào rạt.
Tống Bi Phong dẫn Yến Phi lên bến tàu, một người trong số nói: “Không có thuyền nào khả nghi”. Tống Bi Phong ngưng thị nhìn chiếc thuyền nhỏ, gật đầu không nói gì. Yến Phi đón gió sông, dõi nhìn đèn lửa bên kia, cảm nhận khí tượng phồn hoa hai bên bờ Tần Hoài.
Bốn người đều vận y phục võ sĩ, mặt mày xa lạ, tuổi tác đều khoảng ba mươi, ai ai Thái dương huyệt cũng gồ lên, đôi mắt tinh quang loang loáng, dĩ nhiên đều là cao thủ, hơn nữa không người nào tỏ vẻ khẩn trương bất an chút nào.
Tạ phủ từng bị tập kích trước đây, mục tiêu của địch nhân thậm chí có thể là Tạ An. Có thể tưởng tượng được Tạ An nếu đêm đi thăm Kỷ Thiên Thiên, tất theo đường thủy cưỡi thuyền nhỏ mà đi, cho nên sự cẩn thận của Tống Bi Phong có thể lý giải được.
Tống Bi Phong mỉm cười nói với Yến Phi: “Yến lão đệ sau khi đến Kiến Khang, chưa từng có cơ hội du ngoạn Tần Hoài thỏa thích, đêm nay thì sao?”.
Yến Phi vui vẻ gật đầu, cùng hắn bước lên thuyền, bốn cao thủ cũng theo lên thuyền, tháo dây cột thuyền.
Hai người ngồi ở đuôi thuyền, chiếc khoái thuyền lướt gió dưới sự thao sử của bốn người kia, nhắm hướng tây thẳng tiến.
Tống Bi Phong nói: “Bọn họ đều là hảo thủ điều khiển tàu thuyền kinh nghiệm thủy đạo phong phú, chiếc thuyền buồm nhỏ này của bọn ta thiết kế đặc thù, tột độ cực nhanh, trên sông đừng mong có thể rượt kịp bọn ta”.
Yến Phi ngửa nhìn bầu trời đêm: “Bọn ta đi đâu đây?”.
Tống Bi Phong nói: “Đây là giờ tốt nhất thoát khỏi lực pháp truy tung của địch nhân, hoàn toàn bất đồng so với chờ sáng sớm ngày mai ra khỏi hẻm Ô Y. Đêm nay bọn ta đã chuẩn bị một gian phòng gần hẻm Chu Tước để dừng chân, sớm mai ta lại đưa ngươi đến hẻm Dương Xuân”.
Yến Phi nhíu mày: “Đêm nay quý phủ không có lão ca ngươi chiếu cố, thật là không hay đó”.
Tống Bi Phong mỉm cười: “Nếu Tạ gia không thể không có Tống Bi Phong thì thật là hỏng bét!” Lại thở dài một hơi.
Yến Phi hỏi: “Lão ca sao lại thở dài vậy?”.
Tống Bi Phong hạ giọng: “Ta đang lo cho An gia. Ông ta không chỉ đơn thuần nguội lạnh tâm ý với Tư Mã thị, đối với sinh mệnh của chính mình cũng không lạc quan”. Yến Phi thất kinh: “Lão ca muốn nói sinh mệnh của ông ta chịu uy hiếp?”. Tống Bi Phong nói: “Ngươi hiểu lầm rồi! Cái ta muốn nói là An gia gần đây cảm thấy ngày cuối đời không còn xa mấy, cho nên rất nhiều lúc có bộ dạng như là an bài hậu sự vậy”.
Yến Phi nghĩ tới hành vi gửi gắm kỳ thư, thật có vẻ như an bài hậu sự, trong lòng chấn động, rút cuốn sách mỏng trong mình ra, sau khi giải thích rõ với Tống Bi Phong, đưa cho hắn: “Ước hẹn ngày mai, cát hung khó liệu, lão ca xin tạm bảo quản giùm ta, nếu ta không qua khỏi cửa nạn này, xin lão ca thay ta giao trả lại cho An công, mong ông ta tìm người có duyên khác”.
Tống Bi Phong tiếp lấy quyển sách, trong mắt càng lộ nét buồn, cười khổ: “Quyển ‘Tham Đồng Khế’ này mấy chục năm nay với ông ta như hình với bóng, ông ta chịu đem quyển sách này tặng ngươi, đương nhiên là coi trọng ngươi phi thường, cũng có ý đặt trao tâm nguyện”.
Hắn tuy không nói rõ, Yến Phi đương nhiên minh bạch nỗi ưu tư càng thêm nặng trĩu của hắn: “Đến bây giờ ta vẫn không hiểu được An công tại sao không đem quyển sách này truyền cho Huyền soái?”.
Tống Bi Phong thở dài: “Ta theo An gia mấy chục năm, đâu phải lúc nào cũng thấu rõ được ý tưởng của ông ta. Rất nhiều chuyện vượt ngoài ý liệu, chờ tới sau khi xong chuyện mới biết được ông ta có lối nhìn riêng biệt độc đáo, nhìn xa trông rộng. Như ông ta một mực không để tam lão gia và Diễm thiếu gia ra nhậm những quan chức trọng yếu trong triều, ta cứ mãi không hiểu nổi, đến hôm nay mới biết thật là cao minh làm sao. Hiện tại An gia một khi rời kinh, Tạ gia tất mất đi lực ảnh hưởng nội chính triều đình. Huyền gia vẫn nắm chắc binh quyền Bắc Phủ binh, dưới tình huống đặc thù đó, An gia từ thoái, không còn nguy hiểm kháng hành chính diện triều đình nữa, trái lại có thể làm cho Tạ gia ở hẻm Ô Y vững như Thái Sơn”.
Ngưng một chút nói tiếp: “Sách An gia hết lòng trao cho ngươi, mà không truyền cho Huyền thiếu gia, bên trong tất có huyền cơ ẩn tàng, chắc chắn có thâm ý, nhưng về sau ngươi sẽ phát giác ông ta đúng”.
Yến Phi trong lòng vang lên câu nói của Tạ An: “Cuối cùng sẽ có một ngày ngươi hiểu thấu”.
Bạn đang đọc chuyện tại
TruyệnFULL.vn
———-
1 Càn khôn, lấy dịch làm cửa ngõ, lấy các quẻ làm cha mẹ.
2 Cái vòng của mặt trời, mặt trăng quay đi, người ta cứ theo sức quay của nó mà tính rồi định ra năm tháng thời tiết gọi là lịch pháp.