Bảy Ngày Cho Mãi Mãi

Chương 3



Ngày thứ ba

Hắn muốn kéo tấm ga trải giường phủ lên người nhưng bàn tay hắn quờ quạng mãi mà chẳng thấy gì. Hắn mở một mắt và lấy tay xoa xoa lớp râu chớm mọc. Lucas ngửi thấy mùi hơi thở của mình và tự nhủ rằng thuốc lá và rượu quả thật chẳng hề nên đi chung với nhau. Đồng hồ trên chiếc radio báo thức chỉ sáu giờ hai mươi mốt phút. Bên cạnh hắn, chiếc gối co rúm nằm chỏng chơ. Hắn nhỏm dậy và đi về phía phòng khách nhỏ, người trần như nhộng. Amy cuộn tròn quanh mình tấm ga phủ giường, đang nhai rau ráu một quả táo đỏ vừa nhón được từ giỏ đựng hoa quả.

– Em làm anh thức giấc hả? – Cô hỏi.

– Gián tiếp thôi! Ở đây có cà phê không nhỉ?

– Em đã tự cho phép mình gọi phục vụ mang lên tận phòng rồi, em tắm qua rồi sẽ đi ngay đây.

– Nếu em không ngại, – Lucas đáp, – thì anh muốn em về nhà tắm có được không, anh bị muộn lắm rồi!

Amy đứng lặng người. Cô lập tức đi về phía phòng ngủ và thu nhặt đồ đạc của mình vứt rải rác trên sàn. Cô vội vã mặc quần áo, vớ lấy đôi giầy cao gót và đi thẳng ra hành lang qua của ngách. Lucas từ buồng tắm thò đầu ra hỏi:

– Em không uống cà phê nữa hả?

– Không, cà phê em cũng sẽ về nhà uống luôn, xin cảm ơn vì quả táo!

– Không có gì, em có muốn lấy thêm một quả nữa không?

– Không, thế là đủ lắm rồi, em đã hài lòng lắm, xin chúc anh một ngày tốt lành.

Cô kéo sợi xích an toàn và xoay nắm đấm cửa. Lucas bước lại gần :

– Anh có thể hỏi em thêm một câu nữa được không?

– Em nghe đây!

– Em thích loại hoa nào nhất?

– Lucas, anh quả là một người có nhiều gu, nhưng chủ yếu toàn những thứ gu kém thẩm mỹ! Đôi tay anh quả là khéo léo, đúng là em đã có một đêm tuyệt vời với anh, song tốt nhất ta nên dừng lại ở đây!

Khi ra đến ngoài, cô đụng ngay phải anh chàng phục vụ tầng đang bê chiếc khay đựng đồ ăn sáng tới. Lucas nhìn Amy.

– Em có chắc em không muốn uống cà phê không, họ mang tới rồi đây này.

– Giúp anh đi nào, hãy nói với anh về chuyện hoa!

Amy hít một hơi thật sâu, rõ ràng cô đã chán ngấy.

– Chẳng ai hỏi những điều như vậy đối với người mình đang quan tâm cả, thế thì còn gì là thú vị nữa, chẳng lẽ từng này tuổi rồi mà anh không biết điều đó hay sao?

– Tất nhiên là anh biết chứ, – Lucas đáp bằng giọng của một đứa trẻ đang hờn dỗi, – nhưng em đâu phải là người anh đang quan tâm!

Amy quay gót, thiếu chút nữa thì va phải anh chàng phục vụ vẫn đang đứng chờ trước cửa phòng. Hai anh chàng đứng sững để nghe Amy hét lên từ cuối hành lang: “Hoa xương rồng, nếu anh thích thì cứ ngồi thẳng lên đó mà xem!” Câm lặng, họ đưa mắt dõi theo bóng cô. Một tiếng chuông khẽ vang lên: thang máy đã tới. Trước khi cửa thang máy khép lại, Amy nói thêm: “Một chi tiết nữa, Lucas ạ, anh vẫn còn đang trần truồng đấy!”

– Chị đã không chợp mắt suốt cả đêm.

– Chị vẫn thường ngủ rất ít….

– Zofia, chị đang lo nghĩ chuyện gì vậy?

– Chẳng có gì đâu!

– Một người bạn luôn biết nghe cả những điều mà người kia không nói ra.

– Chị có nhiều việc quá, Mathilde ạ, chị chẳng biết nên bắt đầu từ đâu nữa. Chị sợ mình quá tải, sợ không đáp ứng được những gì mọi người mong đợi ở chị.

– Đây đúng là lần đầu tiên em thấy chị mất tự tin.

– Nếu vậy thì có lẽ chị em mình đúng là đang trở thành những người bạn thực thụ của nhau.

Zofia tiến về phía góc bếp. Cô bước lại sau bức tường lửng và đổ đầy nước vào chiếc ấm đun siêu tốc. Từ giường của mình kê trong phòng khách, Mathilde có thể nhìn thấy mặt trời mọc trên vịnh, dưới lớp mưa phùn lâm thâm buổi ban mai. Những đám mây buồn bã che lấp bầu trời.

– Em căm ghét tháng Mười, – Mathilde nói.

– Nó làm gì em?

– Đó là tháng kết liễu mùa hè. Vào mùa thu mọi thứ đều dè sẻn: ngày ngắn đi, mặt trời chẳng mấy khi xuất hiện, cái lạnh mãi chẳng tới, mình cứ phải nhìn những chiếc áo len mà chẳng thể nào mặc vào được. Mùa thu đúng là một mùa lười biếng đáng nguyền rủa, chỉ toàn ẩm ướt, hết mưa rồi lại đến mưa.

– Chị tưởng chị mới là người ngủ không ngon chứ nhỉ!

Chiếc ấm đun nước bắt đầu sôi sùng sục. Tiếng lẫy bật tách lên cắt đứt tiếng sôi của nước. Zofia mở nắp chiếc hộp sắt, lấy ra một gói trà Earl Grey, đổ nước sôi vào một chiếc tách thật to và thả gói trà vào cho ngấm. Cô bày bữa sáng cho Mathilde lên khay, nhặt tờ báo mà bà Reine đã nhét qua khe cửa như thường lệ vào buổi sáng rồi mang tới đưa cho bạn. Cô giúp bạn ngồi dậy, xếp gối lại cho gọn gàng rồi quay về phòng mình. Mathilde đẩy cánh cửa sổ lên. Làn không khí ẩm ướt cuối mùa lùa vào tận chân cô, đánh thức một nỗi đau nhoi nhói, cô nhăn mặt.

– Chị đã gặp lại cái gã gửi hoa súng cho chị tối hôm qua! – Zofia hét lên từ trong phòng tắm.

– Chị và gã không rời nhau được nữa rồi! – Mathilde đáp lại bằng cách hét to không kém.

– Em cứ nói đùa! Đúng hơn là gã cũng đến ăn trong cùng một nhà hàng với chị.

– Gã đến với ai?

– Một cô gái tóc vàng.

– Trông thế nào?

– Tóc vàng!

– Còn gì nữa?

– Thì là kiểu hãy đuổi theo tôi đi, anh sẽ dể dàng tóm được tôi thôi, gót giày của tôi cao lắm!

– Thế chị có nói chuyện với gã không?

– Vài câu thôi. Gã lúng búng bảo rằng cô ta là nhà báo và gã đã đồng ý để cô ta phỏng vấn.

Zofia đứng vào dưới vòi sen. Cô xoay những chiếc khóa vòi gỉ sét và gõ một cái thật mạnh vào cái vòi sen làm nó kêu khục khục, nước chày dọc trên mặt và trên người cô. Mathilde mở tờ San Francisco Chronicle, một bức ảnh đã thu hút sự chú ý của cô.

– Gã ta không nói dối đâu! – Cô hét lên.

Zofia, vừa mới đổ rất nhiều dầu gội lên tóc, mở mắt ra. Cô cố gắng lấy mu bàn tay chùi bớt bọt xà phòng đang làm cô cay mắt nhưng chỉ khiến cho mắt càng bị xà phòng tràn vào.

– Chỉ có điều tóc cô ta màu hung… – Mathilde tiếp lời, – và trông cô ta cũng không đến nỗi tệ!

Tiếng nước từ vòi sen ngưng bặt, Zofia lập tức hiện ra trong phòng khách. Cô quấn một chiếc khăn tắm bông dày quanh eo và mái tóc vẫn còn phủ đầy bọt.

– Em vừa mới bảo gì cơ?

Mathilde ngắm nhìn cô bạn gái.

– Chị có bộ ngực thật là đẹp!

– Đã là thánh thì tất nhiên phải đẹp, nếu không đã chẳng gọi là thánh.

– Sáng nào em cũng tìm cách nói như vậy với bộ ngực của em khi đứng trước gương.

– Chính xác là em đang nói gì vậy, Mathilde?

– Em nói đến cặp tuyết lê của chị ấy! Em ước ao giá như mình có được bộ ngực đáng hãnh diện như vậy.

Zofia vội lấy tay che lên ngực.

– Em đang nói gì, trước đó cơ?

– Có lẽ là nói về cái vấn đề khiến chị phải chạy ngay ra khỏi buồng tắm mà chẳng kịp tráng sạch người!

– Cô vừa nói vừa vung vẩy tờ báo.

– Làm thế nào mà bài báo có thể được đăng ngay như vậy nhỉ?

– Máy ảnh kỹ thuật số và Internet! Chị trả lời phỏng vấn, chỉ vài giờ sau chị đã xuất hiện trên trang nhất của một tờ báo và ngày hôm sau người ta sẽ dùng chị để gói cá tươi ở cửa hàng!

Zofia đã định lấy tờ báo từ tay Mathilde nhưng cô gái giật lại.

– Đừng có đụng vào! Người chị ướt rượt kia kìa!

Mathilde bắt đầu đọc thật to những dòng đầu tiên của bài viết trải trên hai cột báo “SỰ THẬT VỀ BƯỚC THĂNG TIẾN CỦA TẬP ĐOÀN A&H”: đúng là một bài hết lời ca tụng Ed Heurt trong đó cô nhà báo dùng tới ba mươi dòng để tán dương sự nghiệp của con người mà không ai có thể phủ nhận được công lao to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế địa phương. Bài báo kết luận rằng cái công ty nhỏ bé trong những năm 1950, nay đã trở thành một tập đoàn khổng lồ, hoàn toàn dựa vào đôi vai của Ed Heurt.

Cuối cùng thì Zofia cũng giành được tờ báo và tự đọc nốt bài bình luận có kèm theo một tấm ảnh màu nhỏ. Bài báo được ký tên Amy Steven. Zofia gấp tờ báo lại và không thể giấu được một nụ cười.

– Tóc cô ta màu vàng! – Cô nói.

– Chị sẽ gặp lại gã ta chứ?

– Chị đã nhận lời ăn trưa.

– Khi nào?

– Thứ Ba.

– Thứ Ba mấy giờ?

Lucas sẽ ghé đón cô vào khoảng giữa trưa, Zofia đáp. Mathilde liền chỉ tay về phía của buồng tắm và gật đầu.

– Vậy là còn hai tiếng nữa chứ gì!

– Hôm nay là thứ Ba ư? – Zofia vừa hỏi vừa cuống quít nhặt đồ đạc lên.

– Thì trên tờ báo ghi như vậy!

Zofia bước ra từ phòng thay quần áo chỉ sau đó vài phút. Cô mặc một chiếc quần bò và một chiếc áo dệt len mũi thô, cô đến đứng trước mặt bạn, chờ đợi một lời khen ngợi. Mathilde liếc cô một thoáng rồi lại chúi mũi vào đọc tiếp.

– Có điều gì không ổn cơ nhỉ? Có phải màu sắc không hợp không? Hay tại cái quần này, phải không? – Zofia hỏi.

– Chúng ta sẽ nói chuyện tiếp khi nào chị đã xả tóc thật sạch, – Mathilde vừa đáp vừa lật qua những trang giới thiệu chương trình phát sóng truyền hình.

Zofia soi mình qua tấm gương để trên bệ lò sưởi. Cô cởi áo ra và quay người lại, khom người đi về phía phòng tắm.

– Đây đúng là lần đầu tiên em nhìn thấy chị quan tâm đến cách ăn mặc của mình… Chị cố thanh minh với em rằng chị không thích gã, rằng đó không phải loại đàn ông dành cho chị, rằng gã quá “trầm trọng”… chỉ để thử xem chị sẽ nói những điều đó như thế nào thôi! – Mathilde nói thêm.

Có tiếng cào nhẹ vào cửa báo hiệu bà Reine chuẩn bị vào. Hai tay bà khệ nệ ôm một giỏ rau tươi và một hộp giấy được thắt nơ rất xinh xắn cho thấy bên trong chắc chắn là đồ ngọt.

– Xem ra thì thời tiết hôm nay đang lúng túng chẳng biết phải vận trang phục thế nào, – bà vừa nói vừa bày bánh ra.

– Chẳng phải chỉ có thời tiết thôi đâu bác ạ, – Mathilde hùa theo.

Bà Reine quay lại đúng lúc Zofia từ phòng tắm đi ra, lần này thì tóc xù bông lên. Cô cài nốt chiếc khuy quần cuối cùng và sửa lại dây giày thể thao.

– Cháu ra ngoài hả?

– Cháu có hẹn ăn trưa, – Zofia vừa trả lời vừa hôn nhẹ lên má bà.

– Bác sẽ ngồi lại với Mathilde vậy. Tất nhiên là nếu cô bé đồng ý! Thậm chí kể cả cô bé thấy phiền thì cũng đành chịu thôi, vì bác mà ở một mình dưới nhà thì còn buồn hơn ấy chứ!

Một hồi còi xe réo lên giục giã từ ngoài phố. Mathilde nhoài người qua cửa sổ.

– Đúng hôm nay là thứ Ba rồi! – Mathilde nói.

– Anh ta đến hả? – Zofia hỏi, nép mình sau cửa sổ.

– Không, là công ty Federal Express! Giờ họ đi giao bưu phẩm bằng xe Porsche mui trần cơ đấy. Từ khi họ nhận Tom Hanks vào làm việc, họ chẳng còn lùi bước trước bất cứ điều gì nữa!

Chuông cửa ngân lên hai tiếng, Zofia hôn tạm biệt Mathilde và bà Reine, ra khỏi căn hộ và nhanh chóng xuống cầu thang.

Ngồi sau tay lái, Lucas nâng cặp kính mát lên và cười độ lượng với cô. Zofia vừa mới kịp đóng cửa xe thì chiếc xe mui trần đã lao vút trên mạn đồi Pacific Heights . Chiếc xe chạy thẳng vào PresidioPark, băng ngang qua công viên và đâm vào dãi đường dẫn tới Golden Gate. Phía bờ vịnh bên kia, những ngọn đồi Tiburon nhọc nhằn ngoi lên khỏi lớp sương mù.

– Tôi đưa cô đi dùng bữa trưa trên bờ biển! – Lucas hét lên trong tiếng gió. Món cua bể ngon nhất vùng này! Cô thích món cua bể mà, phải không?

Để giữ phép lịch sự, Zofia gật đầu. Cái lợi của việc không cần ăn uống gì là có thể dể dàng chấp nhận những món trước sau gì mình cũng không ăn.

Tiết trời mát mẻ, con đường rải nhựa thẳng tắp trôi bon bon dưới bánh xe và tiếng nhạc phát ra từ chiếc radio nghe thật du dương. Thời khắc này thật giống như một mảnh hạnh phúc đáng được mang ra chia sẻ. Chiếc xe rời đường cao tốc và rẽ vào một con đường nhỏ chạy theo hình chữ chi tới tận ngư cảng Sausalito . Lucas đậu xe vào bãi đối diện đê chắn sóng. Hắn đi vòng quanh xe và mở cửa xe phía Zofia ngồi.

– Mời cô vui lòng theo tôi.

Hắn đưa cánh tay cho cô vịn và giúp cô ra khỏi xe. Họ đi bộ trên vỉa hè dọc theo bờ biển. Phía bên kia đường, một người đàn ông đang bị một chú chó retriever tuyệt đẹp với bộ lông màu cát vàng lôi đi xềnh xệch. Khi đi ngang tầm họ, ông ta nhìn Zofia và đâm sầm ngay vào cột đèn trước mặt.

Cô muốn băng qua đường ngay để giúp đỡ ông ta, nhưng Lucas đã giữ tay cô lại: loại chó này là chuyên gia trong việc cứu người. Hắn kéo cô vào bên trong nhà hàng. Cô phục vụ cầm hai tờ thực đơn và đưa họ tới bên một chiếc bàn ngoài sân. Lucas mời Zofia ngồi xuống chiếc ghế rộng nhìn ra biển. Hắn gọi một ly rượu vang trắng nổi bọt. Cô lấy một miếng bánh mì ném cho một con mòng biển đang đậu trên lan can theo dõi cô. Con chim lượn mình đớp miếng bánh mì và bay vút lên trời, chao ngang mặt vịnh bằng những cú sải cánh thật rộng.

Cách đó vài cây số, phía bờ bên kia, ông Jules đang đi bộ dọc theo những bến cảng. Ông tiến lại gần bờ nước và dùng chân đá mạnh vào một viên sỏi khiến nó này thia lia bảy lần trước khi rơi tõm xuống nước. Ông thọc sâu hai bàn tay vào túi quần cũ bằng vải tuýt và nhìn bóng bờ vịnh bên kia tỏa xuống cắt ngang mặt nước. Vẻ mặt ông dập dờn như sóng nước, tâm trạng ông cũng thấp thỏm không kém. Chiếc xe của thanh tra Pilguez vừa rời khỏi quán Fisher’s Deli và bắt đầu hú còi trên đường chạy về phía trung tâm thành phố đã kéo ông ra khỏi luồng suy tư. Một cuộc xô xát đã diễn biến thành vụ ẩu đã trong Chinatown, tất cả các đội tuần tra đều được gọi tới để hổ trợ. Ông cau mày. Ông làu bàu rồi quay lại vòm cầu của mình. Ngồi trên một thùng hàng bằng gỗ, ông ngẫm nghĩ: có điều gì đó khiến ông không yên tâm. Một tờ báo bay theo gió rơi xuống vũng nước ngay trước mặt ông. Nó dần dần ngấm nước, từng chút từng chút một, tấm ảnh của Lucas ở mặt sau từ từ hiện ra qua ánh nước. Ông Jules không hề thích cơn rùng mình vừa chạy dọc sống lưng.

Cô phục vụ đặt lên bàn một cái xoong nhỏ đựng đầy càng cua đang bốc khói. Lucas tiếp thức ăn cho Zofia và ném nhanh một cái nhìn về phía những chiếc khăn ăn gài ngực để kèm với thau đựng nước rửa tay. Hắn mời cô nhưng cô từ chối, hắn cũng quyết định sẽ không gài một chiếc quanh cổ.

– Tôi phải thú nhận rằng khăn gài ngực trông chẳng hợp chút nào. Cô không ăn hả? – Hắn hỏi.

– Tôi nghĩ là không.

– Cô ăn chay!

– Ý nghĩ phải ăn các con vật luôn khiến tôi có một cảm giác kỳ lạ.

– Đó là một quy luật, có gì kỳ lạ đâu.

– Nhưng tất cả các sinh vật trên trái đất đều ăn một con gì khác để sống.

– Phải, song những con cua này có làm gì tôi đâu. Tôi xin lỗi, – cô vừa nói vừa đẩy nhẹ chiếc đĩa, rõ ràng nó làm cô cảm thấy hơi ghê.

– Cô nhầm rồi, chính thiên nhiên đã sắp đặt như vậy. Nếu như nhện không ăn côn trùng, thì chính lũ côn trùng đó sẽ ăn thịt chúng ta.

– Nếu vậy thì thật đúng, những con cua cũng là những con nhện to, vì thế cần để cho chúng yên!

Lucas quay người lại và gọi cô phục vụ. Hắn yêu cầu được xem thực đơn các món tráng miệng và rất nhã nhặn thông báo họ đã ăn xong.

– Anh đừng vì tôi mà không ăn gì, – Zofia nói, mặt đỏ lên.

– Cô đã kết nạp được tôi vào hội những người bảo vệ hải sản.

Hắn mở tờ thực đơn ra và lấy tay chỉ món trứng đánh sô-cô-la.

– Tôi nghĩ là với món này, chúng ta sẽ chỉ làm hại chính bản thân mình mà thôi. Khéo phải có đến cả ngàn calori trong một món như thế này!

Tò mò muốn kiểm tra độ chính xác của trực giác về những Thiên thần Kiểm soát, Zofia hỏi Lucas về công việc thật sự của hắn, hắn lẩn tránh không trả lời. Có nhiều chủ đề khác thú vị hơn mà hắn muốn chia sẻ cùng cô, mà trước hế là chuyện cô còn làm gì khác nữa trong cuộc sống, ngoài việc giám sát an ninh ở khu cảng thương mại. Cô làm gì những khi có thời gian rỗi? Cho dù chỉ sử dụng ở số ít, thì khái niệm thời gian rỗi cũng khiến cô cảm thấy xa lạ. Ngoài những lúc làm việc trên bến cảng, cô tham gia hoạt động ở nhiều hội từ thiện, dạy học ở trung tâm dành cho người khiếm thị, chăm sóc những người già và những đứa trẻ trong bệnh viện. Cô thích ở bên họ, giữa họ với cô dường như có một mối liên hệ thần kỳ. Chỉ có người già và trẻ nhỏ mới có khả năng nhìn thấy những điều mà rất nhiều người bỏ qua, lãng phí thời gian để làm người lớn. Trong mắt cô, nếp nhăn của tuổi già tạo thành những nét chữ đẹp nhất viết về cuộc sống, nhờ đó trẻ thơ có thể đọc được những giấc mơ.

Lucas nhìn cô khâm phục.

– Cô thực sự làm tất cả những điều đó hả?

– Đúng vậy.

– Nhưng tại sao?

Zofia không trả lời. Lucas nuốt ngụm cuối cùng của tách cà phê hắn đang uống dở để che giấu thái độ của mình rồi lại gọi thêm một tách nữa. Hắn sẽ uống cà phê mãi, cho dù nó có trở nên nguội ngắt, hay màu trời xám xịt có thể tối sầm lại cũng được. Hắn ước sao buổi gặp này sẽ không kết thúc, không phải ngay bây giờ, không phải lúc này. Hắn đề nghị Zofia đi dạo trên bờ biển. Cô khép cổ áo cho kín rồi đứng lên. Cô cảm ơn hắn vì món tráng miệng, đây là lần đầu tiên cô nếm thử sô-cô-la và cô phát hiện ra mùi vị thật tuyệt vời. Lucas nói với cô rằng hắn tin chắc cô đang chế nhạo hắn, nhưng nhìn vẻ mặt vui sướng của cô gái khi nói với hắn điều đó, hắn biết cô đã không nói dối. Còn một điều nữa khiến hắn càng thêm hoang mang: chính vào cái thời khắc đó, Lucas đọc được một điều khó tả từ đáy mắt của Zofia – cô không bao giờ nói dối! Lần đầu tiên hắn biết đến sự hoài nghi và hắn đứng đó, miệng há hốc.

– Lucas, tôi không biết tôi đã nói gì, nhưng nếu không có nhện thì có lẽ anh đang mạo hiểm ghê gớm đấy!

– Cô nói gì cơ?

– Nếu anh cứ há miệng mãi như thế thì thể nào anh cũng hớp phải một chú ruồi!

– Cô không lạnh hả? – Lucas vừa nói vừa vươn mình đứng thẳng như một cây gậy.

– Không, tôi không sao, nhưng nếu chúng ta đi vài bước thì sẽ tốt hơn.

Bãi biển gần như vắng tanh. Một con mòng biển rất to dường như đang chạy trên mặt nước để lấy đà bay lên. Đôi chân của nó xé ngang làn nước, làm bắn tung bọt nước trên đầu ngọn sóng. Cuối cùng chú chim cũng cất cánh lên, lượn chầm chậm rồi uể oải bay xa dần trong luồn ánh sáng xuyên qua những tầng mây. Những tiếng vỗ cánh tan trong tiếng sóng dồn. Zofia khom người, cố chống chọi lại những đợt gió cuộn tung cát. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc người cô. Lucas cởi áo vét ra và khoác lên vai cô. Làn không khí trĩu nặng hơi sương thổi tới quất thẳng vào má cô. Khuôn mặt cô ngời lên một nụ cười rạng rỡ, giống như có một niềm vui đang xâm chiếm người cô, một niềm vui chẳng có nguyên do, chẳng cần căn cớ cụ thể.

– Tại sao cô lại cười? – Lucas hỏi, vẻ ngạc nhiên.

– Tôi hoàn toàn không biết.

– Nếu vậy thì tốt nhất là cô đừng dừng lại, vẻ mặt đó thật sự rấ hợp với cô.

– Nó hợp với tất cả mọi người.

Một làn mưa nhè nhẹ bắt đầu rơi, làm thành hàng ngàn vết thủng lỗ chỗ trên bãi biển.

– Nhìn kìa, – cô nói, – cứ như là ở trên Mặt Trăng ấy nhỉ, anh có thấy thế không?

– Có, hơi hơi!

– Sao bỗng nhiên trông anh buồn thế?

– Tôi mong sao thời gian ngừng lại.

Zofia cụp mắt xuống và bước về phía trước.

Lucas quay người lại để có thể đi đối diện với cô. Hắn cứ tiếp tục đi ngược như vậy, trước Zofia vài bước, cô bắt đầu thích thú giẫm vào những vết chân mà hắn để lại.

– Tôi chẳng biết phải nói gì những lúc như thế này, – hắn nói như một đứa trẻ.

– Vậy thì đừng nói gì cả.

Gió thổi tung những sợi tóc lòa xòa phía trước mặt Zofia, cô liền gạt chúng ra phía sau. Một sợi tóc mảnh vướng vào giữa những sợi mi thật dài của cô.

– Cô cho phép chứ? – Hắn vừa hỏi vừa đưa bàn tay ra.

– Lạ thật, tự nhiên anh có vẻ rất nhút nhát.

– Tôi không hề nhận thấy điều đó.

– Nếu vậy thì anh đừng có làm khác đi… điều đó rất hợp với anh.

Lucas tiến đến gần Zofia và nét mặt họ biến đổi. Cô cảm thấy sâu thẳm trong trái tim có một cái gì đó mà cô chưa từng biết đến: một tiếng đập khe khẽ dồn nhịp lên tận hai thái dương. Những ngón tay của Lucas rung nhè nhẹ, cố kiềm chế một cử chỉ ve vuốt mà hắn muốn đặt lên má Zofia.

– Được rồi, – hắn vừa nói vừa quay mắt đi.

Một ánh chớp lóe lên phá tan bầu trời tối sẫm, tiếng sấm rền vang và cơn mưa nặng hạt bắt đầu táp xuống người họ.

– Tôi muốn gặp lại cô, – Lucas nói.

– Tôi cũng vậy, có lẽ ở chổ nào khô ráo hơn, nhưng tôi cũng vậy, – Zofia đáp.

Hắn choàng tay ôm vai Zofia và dìu cô chạy về phía nhà hàng. Khoảng sân lát gỗ trắng giờ đã trống trơn. Họ đứng nép vào mái hiên ghép bằng những phiến đá bảng màu đen và cùng nhìn những dòng nước từ trên máng chảy xuống. Trên lan can, một chú mòng biển háu ăn bất chấp mưa giông đứng nhìn họ chăm chăm. Zofia cúi xuống nhặt một mẩu bánh mì đẫm nước. Cô vắt kiệt nước rồi ném nó ra xa. Con chim bay vút theo, miệng ngậm chặt miếng mồi.

– Làm sao để tôi được gặp lại cô? – Lucas hỏi.

– Anh từ phương trời nào đến thế?

Hắn ngập ngừng .

– Một nơi giống như kiểu địa ngục.

Đến lượt Zofia ngập ngừng, cô chăm chú nhìn hắn rồi mỉm cười.

– Đó là điều mà đa số những người đã từng sống ở Manhattan thường nói khi họ chuyển đến đây.

Trời bắt đầu đổ bão, giờ họ phải hét thật to mới có thể nghe được tiếng nhau. Zofia cầm lấy tay Lucas và nói bằng giọng nhẹ như bông.

– Trước tiên anh sẽ gọi lại cho tôi. Anh sẽ hỏi thăm tình hình của tôi, rồi trong lúc trò chuyện anh sẽ đưa ra một cái hẹn. Khi đó tôi sẽ trả lời anh rằng tôi có việc, rằng tôi rất bận; thế rồi anh đề nghị một ngày khác và tôi sẽ nói với anh rằng ngày đó hoàn toàn có thể được, vì rất may, tôi vừa mới hủy một cuộc hẹn khác.

Một tia chớp nữa lại lóe lên trên bầu trời giờ đã đen kịt. Trên bãi biển lúc này, gió thổi như những trận cuồng phong. Thời tiết trông giống hệt như ngày tận thế.

– Anh không muốn chúng ta tìm chổ khuất hơn để đứng hả? – Zofia hỏi.

– Cô cảm thấy thế nào? Lucas chỉ có thể tìm được một câu như vậy để đáp lại.

– Tốt lắm, để làm gì? – Cô hỏi, vẻ ngạc nhiên.

Vì tôi muốn đề nghị cô đi cùng tôi cả buổi chiều hôm nay … nhưng có vẻ cô không rỗi, có lẽ cô có việc, có thể cô bận rồi. Liệu bửa ăn tối nay có thích hợp hơn không?

Zofia mỉm cười, hắn mở chiếc áo măng tô để che cho cô rồi đưa cô ra xe. Nước biển dâng cao mấp mé vỉa hè trống trơn. Lucas dẫn Zofia qua đường. Hắn mở cánh cửa sũng nước vì bị gió tạt vào. Tiếng ồn điếc tai của cơn bão bên ngoài giảm hẳn khi họ vào hẳn bên trong và họ bắt đầu lên đường dưới làn mưa xối xả. Lucas thả Zofia xuống trước một ga-ra sửa xe đúng như cô yêu cầu. Trước khi chia tay, hắn nhìn đồng hồ. Cô cúi mình xuống cửa sổ.

– Tôi đã có hẹn ăn bửa tối nay, nhưng tôi sẽ thử từ chối, tôi sẽ gọi vào di động cho anh.

Hắn mỉm cười, khởi động xe và Zofia nhìn theo cho tới khi chiếc xe biến mất trong khu phố Van Ness Avenue.

Cô thanh toán tiền sạc ắc-quy xe cùng với phí cẩu xe. Khi cô lái xe vào đường Broadway, cơn bão đã tan hẳn. Đường hầm đâm thẳng tới trung tâm khu phố đông đúc nhất thành phố. Tới lối đi cắm cọc dành cho người đi bộ, cô thoáng thấy một tên móc túi đang chuẩn bị lao vào nạn nhân. Cô đậu xe hành đôi, bước xuống xe và chạy về phía hắn.

Cô chặn ngay hắn lại không hề ngần ngại, hắn lùi lại một bước: trông cô đầy vẻ đe dọa.

– Đúng là một ý định không hay, – Zofia vừa nói vừa đưa tay chỉ theo người phụ nữ đeo cặp đang đi xa dần.

– Mụ là cớm hay sao?

– Điều đó không liên quan.

– Nếu vậy thì biến ngay, mụ điên.

Rồi hắn chạy thụt mạng về phía con mồi. Khi hắn chạy đến gần sát người phụ nữ, hắn bị trẹo chân và vấp ngã sóng soài. Người phụ nữ trẻ vừa leo lên Cablecat vẫn không hề biết chuyện gì xảy ra. Zofia chờ cho hắn đứng lên rồi mới quay lại xe của mình.

Vừa mở cửa xe, cô vừa cắn môi dưới, bất bình với chính bản thân. Điều gì đó đã khiến cô phân tâm. Mục đích đã đạt được, song không phải theo cách mà cô muốn: khuyên can hắn thôi thì không đủ. Cô lại tiếp tục lái xe về phía bến cảng.

– Tôi có cần lái xe đi cất không, thưa ông?

Lucas giật nẩy mình và ngẩng đầu lên, hắn nhìn chằm chằm vào người giữ xe đang nhìn hắn vẻ rất lạ.

– Sao anh lại nhìn tôi như vậy?

– Ông đã ngồi bất động trong xe từ hơn năm phút rồi, vì vậy tôi tự hỏi …

– Anh vừa mới nói gì nhỉ?

– Tôi tưởng ông thấy không khỏe trong người, nhất là khi thấy ông gục đầu lên tay lái.

– Thôi được, đừng tưởng gì cả, như thế anh sẽ tránh được cho mình khối sự thất vọng đấy!

Lucas ra khỏi chiếc xe mui trần và ném chùm chìa khóa cho chàng trai trẻ. Khi những cánh cửa thang máy mở ra, hắn đụng ngay phải Elizabeth, đang nghiêng người về phía hắn để chào, Lucas lập tức lùi lại một bước.

– Chị đã chào tôi sáng nay rồi, Elizabeth, – Lucas vừa nói vừa nhăn mặt.

– Anh nói đúng về những con ốc sên, quả là ngon tuỵệt! Chúc anh một ngày tốt lành!

Hai cánh cửa thang máy mở ra ở tầng chín, chị ta biến mất trong hành lang.

Ed đón Lucas bằng hai cánh tay dang rộng.

– Quả là một điềm lành khi quen biết được anh, Lucas thân mến!

– Có thể nói như vậy cũng được, – Lucas vừa đáp vừa đóng cửa phòng làm việc lại.

Hắn tiến về phía ông phó chủ tịch và ngồi vào chiếc ghế bành. Heurt huơ huơ tờ San Francisco Chronicle.

– Chúng ta sẽ cùng nhau làm nên đại sự.

– Tôi không nghi ngờ gì về điều đó.

– Anh có vẻ không được khỏe.

Lucas thở dài, Ed cảm nhận được sự chán nản của Lucas. Một lần nữa ông ta lại phấn khởi vẫy vẫy tờ báo trên đó có tấm ảnh của Amy.

– Bài báo thật tuyệt vời! tôi không thể nào viết hay hơn thế được.

– Nó đã được đăng rồi ư?

– Sáng nay! đúng như cô ta đã hứa. Cô nàng Amy này thật tuyệt, phải không? có lẽ cô ta đã phải làm việc cả đêm.

– Cũng tương tự như vậy, đúng thế.

Ed chỉ ngón tay vào tấm ảnh của Lucas.

– Tôi thật ngốc, lẽ ra tôi nên đưa cho anh một tấm ảnh của tôi trước buổi hẹn, nhưng không sao, trông anh cũng được lắm.

– Cám ơn ông.

– Anh có chắc là mọi chuyện ổn cả không, Lucas?

– Chắc, thưa ngài chủ tịch, tôi rất khỏe!

– Tôi không biết trực giác của tôi có nhầm không, nhưng trông anh có vẻ rất lạ.

Ed mở nút chiếc bình pha lê, rót một ly nước cho Lucas và nói thêm bằng vẻ cảm thông rất giả tạo.

– Nếu anh gặp bất cứ vấn đề gì, kể cả chuyện riêng tư, lúc nào anh cũng có thể tâm sự với tôi. Công ty chúng ta đúng là một ngôi nhà khổng lồ, song trước nhất chúng ta là một đại gia đình!

– Ngài muốn gặp tôi phải không, thưa ngài chủ tịch?

– Cứ gọi tôi là Ed!

Như một người đang lên đồng, Heurt bình phẩm rằng bửa ăn của ông ta tối hôm trước diễn đã diễn ra trôi chảy hơn cả mong muốn. Ông ta đã thông báo cho các đồng sự ý định ông ta vừa mới nảy ra về việc thành lập một bộ phận mới của tập đoàn mà ông ta sẽ gọi là: Ban Đổi mới. Mục đích thành lập ra bộ phận này là triển khai những phương thức kinh doanh mang tính đột phá nhằm chinh phục những thị trường mới. Ed sẽ dẫn đầu chiến dịch: cuộc trải nghiệm này sẽ có tác dụng như một liều thuốc hồi xuân đối với ông ta. Ông ta thèm được hành động. Vào lúc này, khi họ đang nói chuyện với nhau, rất nhiều phó giám đốc đang vui mừng với ý nghĩ sẽ tham gia vào đội quân cận vệ mới của ngài chủ tịch tương lai. Quả đúng là Judas không bao giờ già … mà còn biết biến thành số đông, Lucas nghĩ. Vẫn tiếp tục bài diễn thuyết của mình, Heurt kết luận rằng chỉ một chút ganh đua với người hợp tác của ông ta chắc cũng chẳng hại gì, ngược lại, một luồng không khí mới bao giờ cũng có lợi.

– Anh có chia sẽ quan điểm này với tôi không, Lucas?

– Tất nhiên, – hắn vừa đáp vừa gật đầu.

Lucas như đang bay trên mây: những ý định của Heurt còn vượt trên cả tầm mong đợi của hắn và cho thấy trước dự định của hắn sẽ thành công. Tại số 666 Phố Chợ, làn khí quyền lực sẽ nhanh chóng trở nên khang hiếm. Hai người bàn luận với nhau về phản ứng của Antonio. Có khả năng người này sẽ phản đối những ý tưởng mới của ông ta. Cần phải gây được tiếng vang để quảng cáo cho bộ phận của ông ta, nhưng triển khai công việc này một cách quy mô thì không phải là một việc dể dàng mà sẽ phải cần rất nhiều thời gian, Heurt nhắc nhở. Ngài phó chủ tịch đang mơ tới một thị trường tầm cỡ để hợp thức hóa quyền lực mà ông ta muốn chinh phục. Lucas đứng lên và đặt trước mặt Ed tập hồ sơ mà hắn vẫn ôm trong tay rồi tút từ trong đó ra một xấp tài liệu dày:

Khu cảng San Francisco trải rộng hàng ki-lô-mét, gần như bao kín đường bờ biển quanh thành phố. Đây là khu vực biến động không ngừng. Hoạt động của các bến cảng tồn tại lay lắt, trong khi giới bất động sản lại vô cùng thèm thuồng mặc dù đã rất nhiều lần đấu tranh gay gắt để mở rộng khu du thuyền và cải tạo các khu đất trông ra biển, cũng là những khu đất có giá nhất trong thành phố. Các thuyền buồm nhỏ đã tìm được chổ để thả neo trong một khu xập xệ nhờ chiến công của chính những người môi giới trong việc tìm cách di chuyển trận chiến quá một chút lên phía Bắc. Sự hình thành khu dân cư này đã là mục tiêu nhòm ngó của giới kinh doanh, những ngôi nhà nằm sát bên bờ biển đã bị người ta giằng xé nhau mua với giá cao ngất trời. Trước đó, người ta cũng đã xây những bến đậu lớn có thể đón những tàu biển khổng lồ. Từng đoàn người theo những con tàu này tới đây để đi dạo trên những đoạn đường mới được quy hoạch dẫn tới cảng số 39. Khu du lịch đã làm mọc lên rất nhiều cửa hàng thương mại và quán ăn. Các hoạt động đa dạng trên bến cảng tạo nên nguồn lợi nhuận khổng lồ và cũng gây nên những cuộc tranh giành lợi nhuận căng thẳng. Từ mười năm nay, các giám đốc bộ phận bất động sản trong khu cảng liên tiếp thế chổ nhau cứ mười lăm tháng một lần, một dấu hiệu cho thấy cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng không ngừng diễn ra xung quanh việc mua bán và khai thác hai bên bờ của khu phố.

– Anh muốn đi đến đâu đây? – Ed hỏi.

Lucas cười ranh mãnh và trải ra một tấm bản đồ: trên khung bản đồ có thể đọc được dòng chữ “Cảng San Fancisco, bến số 80”.

– Tấn công nốt thành trì cuối cùng này!

Ngài phó chủ tịch muốn có một ngai vàng, Lucas sẽ tặng cho ông ta một lễ đăng quang!

Hắn lại ngồi xuống ghế trình bày chi tiết về dự định của mình. Tình hình trên khu cảng hiện nay đang rất bấp bênh. Công việc lúc nào cũng nặng nhọc và thường xuyên nguy hiểm, tâm trạng của công nhân cảng đang vô cùng bất mãn. Một cuộc đình công cảng có thể lan ra nhanh hơn virut. Lucas đã tiến hành tất cả những gì cần thiết để bầu không khí ở đó lúc nào cũng sẵn sàng bùng nổ.

– Tôi vẫn chưa thấy điều này sẽ có lợi gì cho chúng ta. – Ed vừa nói vừa ngáp dài.

Lucas nói tiếp bằng giọng thản nhiên:

– Chừng nào các doanh nghiệp kho vận và vận tải biển trả lương và tiền thuê nhà cho họ thì sẽ không ai dám đuổi họ đi chổ khác. Nhưng điều này có thể sẽ thay đổi rất nhanh. Chỉ cần mọi hoạt động bị tê liệt thêm một lần nữa.

– Ban giám đốc cảng sẽ không bao giờ đi theo hướng đó. Rồi chúng ta sẽ gặp phải rất nhiều chống đối.

– Điều này còn tùy thuộc vào các tác động bên ngoài, – Lucas nói.

– Cũng có thể, – Heurt vừa nói vừa lúc lắc đầu, – nhưng với một dự án tấm cỡ như vậy, chúng ta cần phải có sự hỗ trợ từ bên trên.

– Chắc ngài cũng chẳng cần ai giải thích việc làm thế nào để giật đúng những sợi dây gây áp lực! Ông giám đốc bất động sản khu cảng chẳng mấy chốc sẽ bị thay thế. Tôi tin chắc hiện giờ điều ông ta quan tâm nhất là một khoản trợ cấp nghĩ việc hậu hĩnh.

– Tôi vẫn chưa hiểu anh đang muốn nói gì!

– Ed, thiếu chút nữa thì ngài đã có thể phát minh ra loại hồ chuyên dán những phong bì dùng để đút lót còn gì!

Ngài phó chủ tịch vươn người ngồi thẳng dậy trên chiếc ghế bành, phân vân không biết có cần phải cảm thấy được tâng bốc bởi câu nói này hay không. Vừa bước ra cửa, Lucas vừa nói vọng lại với ông sếp bằng giọng cộc lốc.

– Bên trong lá bìa màu xanh lơ có một tờ ghi đầy đủ thông tin đầy đủ về ứng cử viên đang chờ khoản trợ cấp nghĩ hưu rộng rãi của chúng ta. Kỳ nghĩ cuối tuần nào ông ta cũng đến nghĩ bên bờ hồ Tahoe, ông ta ngập đầu trong nợ nần rồi. Hãy xoay sở để tôi có thể gặp ông ta càng sớm càng tốt. Hãy hẹn gặp ở một nơi thật kín đáo, rồi những việc còn lại hãy để mặc tôi.

Heurt bối rối lật xem các trang tài liệu. Ông ta nhìn Lucas, gần như bị thôi miên, và nhíu mày.

– Khi còn ở New York, anh có làm chính trị không?

Cánh cửa phòng đã đóng lại.

Thang máy đã lên đến nơi, Lucas để mặc nó chạy đi trống không. Hắn rút điện thoại ra, bật máy lên và cuống quít bấm số hộp thư thoại. “Bạn không có tin nhắn mới”, giọng nói mang âm sắc rô-bốt nhắc lại hai lần. Hắn gác máy rồi cho con lăn điện thoại chạy cho tới khi hình một chiếc phong bì nhỏ hiện lên: nó hoàn toàn trống rỗng. Hắn tắt phụt điện thoại rồi bước vào thang máy. Khi ra đến bãi xe, hắn tự nhủ có một điều gì đó không thể định nghĩa nổi đang làm hắn bối rối: một tiếng đập khe khẽ từ sâu thẳm trong trái tim đang dồn nhịp lên tận hai thái dương.

Buổi họp giám định đã kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ. Cú ngã của Gomez xuống sàn khoang tàu Valparaiso bắt đầu mang lại những hậu quả đáng lo ngại. Ông vẫn đang hôn mê. Cứ cách một tiếng, Manca lại gọi điện đến bệnh viện một lần để hỏi thăm về tình trạng của ông: các bác sĩ vẫn chưa dám đưa ra chuẩn đoán. Nếu người công nhân cảng không thể qua khỏi, sẽ không còn ai có thể kiểm soát nổi nỗi bất bình đang gầm gừ trên khắp các bến cảng. Đích thân chủ tịch nghiệp đoàn của bờ biển phía Tây đã tới dự buổi họp. Ông đứng lên lấy thêm một tách cà phê. Zofia tận dụng cơ hội này để kín đáo rời khỏi căn phòng nơi đang ồn ào tiếng tranh cải. Cô rời khỏi tòa nhà và đi cách xa hẳn vài bước chân để trốn sau một thùng công-ten-nơ. Thoát khỏi những ánh mắt tò mò, cô bấm một số điện thoại. Hệ thống trả lời tự động vang lên một tiếng ngắn gọn: “Lucas”, tiếp theo sau là một tiếng bíp.

– Zofia đây, tối nay tôi rảnh, anh hãy gọi lại cho tôi để xem chúng ta sẽ gặp nhau như thế nào. Hẹn anh lát nữa gặp nhé.

Gác máy xong, cô nhìn chiếc điện thoại của mình rồi chẳng hiểu vì sao, cô mỉm cười.

Đến cuối buổi chiều, tất cả những người được ủy quyền đều đã thống nhất sẽ tạm thời dời lại việc đưa ra quyết định. Họ cần phải có thời gian để xem xét kĩ hơn. Ban điều tra sẽ chỉ công bố biên bản giám định nguyên nhân tai nạn vào lúc tối muộn và bệnh viện Memorial Francisco cũng phải chờ kết quả xét nghiệm tổng thể vào sáng hôm sau mới có thể đưa ra ý kiến về khả năng sống sót của người công nhân cảng. Vì vậy, buổi họp tạm dừng và sẽ tiếp tục vào ngày hôm sau. Ngay sau khi nhận được hai bản báo cáo, Manca sẽ tập họp các thành viên của ban giám định, và ngay sau đó sẽ có một buổi họp đại hội đồng.

Zofia cảm thấy cần được hít thở không khí thoáng đãng. Cô tự cho mình vài phút nghĩ ngơi bằng cách đi dạo dọc theo bờ cảng. Cách đó vài bước chân, mũi tàu Valparaiso han gỉ đang đong đưa ở đầu dây neo, con tàu bị xích trông giống một con thú mang tới điềm xấu. Bóng con tàu chở hàng thấp thoáng ẩn hiện dưới mặt nước như loang dầu đang dập dờn theo nhịp nước róc rách. Dọc theo lối đi trên boong, những người đàn ông mặc đồng phục đi lại tấp nập, chăm chú thực hiện các kiểu giám định. Thuyền trưởng của con tàu đứng tựa mình vào lan can khoang lái quan sát họ. Qua cách ông ta ném điếu thuốc xuống mặt nước, có thể đoán được những giờ sắp tới chắc chắn sẽ còn náo động hơn cả mặt nước nơi chiếc đầu lọc đang nổi bập bềnh. Giọng của ông già Jules vang lên phá tan bầu không khí vắng vẻ, nơi chỉ nghe có tiếng chí chóe của những con mòng biển.

– Trông chẳng muốn nhảy xuống lặn tẹo nào, có phải không? Trừ khi lặn một lèo xuống đáy luôn!

Zofia quay người lại và chăm chú nhìn ông trìu mến. Đôi mắt màu xanh lơ của ông đã mõi mệt, bộ râu quai nón lởm chởm, bộ quần áo cũ nát, song sự cùng quẫn không hề làm mất đi vẻ đẹp nơi con người ông. Ở người đàn ông này, sự lịch lãm toát ra từ đáy con tim. Ông già Jules thọc sâu hai tay vào túi chiếc quần cũ vải tuýt kẻ ca-rô.

– Đây là vải kẻ theo kiểu hoàng tử xứ Galles, nhưng ta nghĩ chắc hoàng tử cũng đã bỏ cái kiểu ăn mặc như thế này từ lâu lắm rồi.

– Chân bác thế nào rồi?

– Phải nói là nó vẫn còn đứng bên cạnh cái chân bên kia, mà như thế thì chẳng đến nỗi tệ lắm.

– Bác đã thay băng chưa?

– Thế còn cháu, cháu sao rồi?

– Hơi đau đầu một chút, cuộc họp này có vẻ như chẳng bao giờ kết thúc được.

– Và còn hơi đau tim nữa chứ?

– Không, sao lại thế ạ?

– Bởi nếu căn cứ vào những lúc cháu đến lang thang ở chổ này thời gian gần đây, ta đoán chắc chẳng phải để tắm nắng đâu.

– Được rồi, bác Jules, cháu chỉ muốn hít thở không khí trong lành một chút thôi mà.

– Và làn không khí trong lành nhất mà cháu có thể tìm thấy được lại là quanh một vũng nước xông mùi cá chết. Nhưng ta nghĩ có thể cháu nói đúng: cháu có vẻ khỏe khoắn lắm!

Những người đàn ông điểu tra trên con tàu cũ kỹ đã leo xuống bằng chiếc thang dây gắn trên thành tàu. Họ chui vào hai chiếc Ford màu đen (mà các cửa khi đóng lại không làm phát ra một tiếng động nào), chậm rãi chạy về phía cổng khu cảng.

– Nếu cháu định xin nghĩ phép ngày mai, thì đừng có hy vọng gì nhé! Ta sợ rằng rồi ngày mai cháu sẽ lại có nhiều việc còn hơn cả bình thường.

– Cháu cũng sợ như vậy.

– Thế nào, chúng ta nói đến đâu rồi nhỉ? – Ông Jules hỏi tiếp.

– Đến đoạn cháu chuẩn bị phải mắng bác thì bác mới chịu đi thay băng! Bác đứng đây chờ nhé, cháu đi lấy xe đây!

Zofia không để cho ông có cơ hội phản đối và bỏ đi luôn.

– Cháu chơi ăn gian quá! – Ông làu bàu sau bộ râu quai nón.

Sau khi đưa ông già Jules về, Zofia chạy thẳng về nhà. Cô lái xe bằng một tay, tay kia tìm chiếc điện thoại. Có lẽ nó vẫn còn nằm ở đáy chiếc túi to của cô, vì cô tìm mãi vẫn không thấy đâu…. đèn ở ngã tư đầu tiên đã đổi sang màu đỏ. Dừng xe lại, cô dốc mọi thứ trong túi ra ghế bên phải và nhặt lấy chiếc điện thoại từ giữa đống đồ lộn xộn.

Lucas đã gửi một tin nhắn, anh ta sẽ chở cô dưới cổng nhà vào lúc bảy giờ rưỡi. Cô nhìn đồng hồ, cô còn đúng bốn mươi bảy phút nữa để về nhà, ôm hôn Mathilde và bà Reine rồi thay quần áo. Chỉ một lần thì cũng chẳng chết ai … cô cúi xuống, mở hộp đựng găng ra và đặt chiếc đen hiệu màu xanh lên nóc xe. Còi xe bắt đầu hú, cô lái xe chạy hết tốc độ về phía đường số 3.

Lucas đang chuẩn bị rời khỏi phòng làm việc. Hắn với lấy chiếc áo gió treo trên mắc áo và khoác nó lên vai. Hắn tắt đèn và thành phố hiện lên dưới hai màu đen trắng qua lớp kính cửa sổ. Hắn vừa định khép cửa thì chuông điện thoại reo vang. Hắn quay lại nghe điện thoại. Ed thông báo ông ta sắp xếp buổi hẹn vào đúng mười chín giờ ba mươi phút. Trong bóng tối, Lucas ngoáy vội địa chỉ lên một mẩu giấy.

– Tôi sẽ gọi lại cho ngài sau khi thống nhất được với người đứng ra đàm phán với chúng ta.

Lucas gác máy bất chấp phép lịch sự và bước lại gần cửa kính. Hắn nhìn những con phố kéo dài phía bên dưới. Từ độ cao này nhìn xuống, những làn ánh sáng màu trắng và màu đỏ nhấp nháy phát ra từ những đèn pha ô tô vạch thành những lưới nhện khổng lồ lấp lánh trong đêm. Lucas áp trán vào lớp kính, một quầng hơi nước đọng lại trước miệng hắn, ở chính giữa, một chấm sáng nhỏ màu xanh lơ lấp lánh. Phía xa xa, một chiếc xe gắn đèn ưu tiên đang leo lên đường Pacific Heights. Lucas thở dài, thọc tay vào túi áo măng-tô rồi ra khỏi phòng.

Zofia tắt còi ưu tiên và tháo bỏ đèn báo hiệu ưu tiên: trước nhà có một chổ trống, cô đậu xe ngay vào đó. Cô leo bốn bậc thang một và vào căn hộ của mình.

– Có nhiều người đuổi theo chị lắm không? – Mathilde hỏi.

– Gì cơ?

– Trông chị gần như hụt hơi rồi, giá mà chị nhìn thấy mặt chị lúc này nhỉ!

– Chị phải chuẩn bị thay đồ đây, chị bị muộn lắm rồi! Ngày hôm nay của em thế nào?

– Lúc ăn trưa, em đã thử chạy đua với Carl Lewis và em đã thắng anh ta!

– Em ở nhà buồn lắm hả?

– Sáu mươi tư chiếc xe con đã chạy qua phố nhà chị trong đó có mười chín chiếc màu xanh lá cây!

Zofia bước lại gần bạn và quỳ xuống bên cạnh giường.

– Ngày mai chị sẽ cố gắng về sớm hơn.

Mathilde liếc nhìn chiếc đồng hồ quả lắc nhỏ đặt trên kệ và lắc đầu.

– Em không muốn nhúng mũi vào chuyện chẳng liên quan tới mình đâu …

– Tối nay chị ra ngoài, nhưng chị sẽ không về muộn đâu. Nếu em vẫn chưa ngủ thì chúng ta có thể nói chuyện, – Zofia vừa nói vừa đứng lên.

– Cho chị hay cho em? – Mathilde thì thầm, nhìn bạn biến mất sau chiếc tủ quần áo.

Mười phút sau cô lại xuất hiện trong phòng khách. Một chiếc khăn mặt quấn quanh mái tóc còn ướt của cô, một chiếc khoác buộc quanh eo vẫn còn ẩm ướt. Cô đặt một túi vải đựng đồ trang điểm lên bệ lò sưởi và tiến lại gần gương.

– Chị ăn tối cùng với anh chàng Lucas phải không? – Mathilde hỏi.

– Anh ấy gọi điện tới hả?!

– Không, tuyệt đối không hề có.

– Thế thì sao em biết được?

– Sao lại không!

Zofia quay lại, chống tay lên hông và đứng đối mặt với Mathilde, vẻ rất quả quyết.

– Em tự mình đoán ra điều đó à, chuyện chị ăn tối cùng với Lucas ấy?

– Trừ khi em nhầm lẫn, còn nếu không thì hình như tay phải của chị đang cầm một lọ mascara, còn trong tay trái là một chiếc chổi đánh phấn.

– Chị chẳng thấy có gì liên quan cả!

– Chị còn muốn em cung cấp thêm manh mối cho chị nữa hả? – Mathilde hỏi giọng mỉa mai.

– Nếu có thì em sẽ thấy chị vui mừng vô cùng đấy! – Zofia trả lời, hơi tự ái.

– Chị là người bạn tốt nhất của em từ hơn hai năm nay…

Zofia nghiêng đầu sang một bên. Khuôn mặt của Mathilde sáng lên một nụ cười rộng lượng.

– … đây là lần đầu tiên em thấy chị trang điểm!

Zofia quay lại phía gương và không trả lời. Mathilde uể oải nhặt cuốn phụ trương tạp chí truyền hình lên và bắt đầu đọc lại đến lần thứ sáu trong ngày.

– Nhà mình làm gì có vô tuyến đâu! – Zofia vừa nói vừa dùng ngón tay thoa nhẹ một lớp son bóng lên môi.

– Thật may, em chúa ghét cái của đó! – Mathilde vừa đối đáp chan chát vừa lật sang trang.

Điện thoại reo lên từ bên trong chiếc túi xắc mà Zofia để trên giường của Mathilde.

– Chị có muốn em nghe hộ không? – Cô bạn hỏi bằng giọng ngây thơ.

Zofia lao thẳng vào mớ đồ đạc lộn xộn trong túi. Cô lấy điện thoại ra và đi ra xa phía đầu kia căn phòng.

– Không, chị không muốn! – Mathilde làu bàu và bắt đầu nhìn bảng chương trình truyền hình của ngày hôm sau.

Lucas xin lỗi, anh ta bị muộn và không thể tới đón cô được. Một bàn ăn đã được đặt sẵn cho hai người vào lúc hai mươi giờ ba mươi phút ở tầng cao nhất của tòa nhà Ngân hàng Châu Mỹ nằm trên phố California. Nhà hàng ba sao có tầm nhìn bao quát thành phố mang lại một góc nhìn rất đẹp ra Golden Gate. Tới đó Zofia sẽ gặp anh ta. Cô bỏ máy, quay lại góc bếp và cúi người nhìn vào bên trong tủ lạnh. Mathilde nghe tiếng cô bạn co hỏi vọng ra:

– Em muốn ăn gì nào? Chị có một chút thời gian đủ để chuẩn bị cho em bữa tối.

– Em muốn món “trứng tráng – rau sống – sữa chua”.

Một lát sau, Zofia vớ lấy chiếc măng-tô treo trong tủ quần áo, hôn lên má Mathilde rồi nhẹ nhàng khép cánh cửa căn hộ lại.

– Cô ngồi vào sau tay lái chiếc Ford. Trước khi khởi động xe, cô hạ thấp tấm kính che nắng xuống và ngắm mình trong gương vài giây. Vừa bĩu môi vẻ ngờ vực, cô vừa nâng kính cửa sổ lên và xoay chìa khóa công-tắc. Khi chiếc xe biến mất ở góc đường, tấm rèm che cửa sổ phòng bà Reine rơi xuống che đi lớp kính.

Zofia đậu xe ở ngay lối vào bãi đậu và cảm ơn người gác bãi mặc bộ chế phục màu đỏ đang chìa cho cô một chiếc vé.

– Tôi ước mình là người đàn ông sẽ dùng bữa cùng cô tối nay! – Chàng trai trẻ nói.

– Cảm ơn anh, – cô đáp, mặt đỏ lên hoan hỉ.

Cánh cửa xoay tròn một vòng và Zofia hiện ra trong sảnh. Vào giờ này các văn phòng đều đã đóng cửa, chỉ còn quầy bar tầng trệt và nhà hàng ở tầng trên cùng mở cửa đón khách. Cô đang tự tin bước về phía thang máy, thì bỗng cảm giác khô khốc dần dần lan ra trong miệng. Đây là lần đầu tiên Zofia biết khát nước. Cô xem giờ trên đồng hồ đeo tay. Vẫn còn sớm mười phút, cô nhìn quầy giải khát bằng đồng phía sau cửa kính quán cà phê rồi đổi hướng đi. Cô chuẩn bị bước vào bên trong thì chợt thoáng nhận ra Lucas đang ngồi bên một chiếc bàn và say sưa trò chuyện với vị giám đốc bộ phận bất động sản của khu cảng. Bàng hoàng, cô lùi bước và quay lại đi về phía thang máy.

Một lát sau, Lucas được người quản lý nhà hàng dẫn tói bàn nơi Zofia đang ngồi đợi. Cô đứng lên, hắn hôn tay cô rồi mời cô ngồi xuống chỗ có thể nhìn ra quang cảnh bên ngoài.

Trong suốt bửa ăn, Lucas đặt hàng trăm câu hỏi và Zofia đưa ra đến hàng ngàn câu trả lời. Hắn thưởng thức món ngon của thực đơn, cô không đụng tới một chút nào, tế nhị gạt thức ăn ra bốn góc đĩa. Những phút người phục vụ bàn xen vào điều khiển họ cảm thấy như dài vô tận. Đến lúc anh ta lại bước đến gần, trong tay cầm một chiếc máy nhỏ hút vụn bánh trông giống như một lưỡi liềm bên ngoài bọc lông, Lucas liền đến ngồi cạnh Zofia và thổi một hơi thật mạnh lên tấm khăn trải bàn.

– Đấy, giờ thì sạch rồi! Anh có thể để mặc chúng tôi, cảm ơn nhiều! – Hắn nói với anh chàng phục vụ.

Họ lại tiếp tục trò chuyện. Cánh tay của Lucas đặt tì lên thành ghế, Zofia có thể cảm nhận hơi ấm từ bàn tay hắn tỏa ra, ngay sát gáy cô.

Người phục vụ bàn lại bước tới khiến Lucas nổi cáu. Anh ta đặt trước mặt họ hai chiếc thìa và một dĩa sô-cô-la nóng chảy. Anh ta xoay chiếc đĩa hướng và phía hai người, vươn thẳng người như một cây cột rồi tự hào thông báo tên món tráng miệng.

– Đúng là nhờ có anh nói rõ cho, – Lucas đáp, vẻ bực bội, – nếu không có thể người ta đã tưởng nhầm với món bánh phồng nhân cà-rốt!

Người phục vụ kín đáo rút lui. Lucas nghiêng người về phía Zofia.

– Cô chẳng ăn gì cả.

– Tôi ăn ít lắm, – cô vừa nói vừa cúi thấp đầu.

– Hãy nếm thử đi, để tôi được vui lòng, một miếng sô-cô-la bằng một góc thiên đường trong miệng đấy.

– Và một địa ngục đối với lớp mỡ bên hông!- Cô đáp.

Không để cho cô được lựa chọn, hắn xắn lấy một miếng sô-cô-la, đưa chiếc thìa lên tận miệng Zofia và đặt miếng sô-cô-la còn nóng ấm lên lưỡi cô. Trong ngực Zofia, nhịp đập càng lúc càng trở nên rộn ràng hơn và cô cố giấu nỗi sợ hãi của mình trước đôi mắt chăm chú của Lucas.

– Vừa nóng lại vừa lạnh, thật là êm dịu, – cô nói.

Chiếc khay trong tay người tiếp rượu khẽ nghiêng, ly rượu cô-nhắc trượt đi. Khi chạm phải lớp đá trên mặt sàn, nó vỡ tung thành bảy mảnh giống hệt nhau. Cả căn phòng lặng đi, Lucas khẽ ho và Zofia phá vỡ bầu không khí yên tĩnh.

Cô vẫn còn hai câu hỏi cho Lucas nhưng cô muốn hắn phải hứa sẽ trả lời thật thẳng thắng, và hắn đồng ý.

– Anh đã gặp giám đốc phụ trách bất động sản của khu cảng để làm gì?

– Thật lạ vì cô lại hỏi tôi như vậy.

– Chúng ta đã nói là sẽ thẳng thắn!

Lucas nhìn Zofia không chớp mắt, cô đã đặt tay lên bàn, tay hắn nhích lại gần hơn.

– Đó chỉ là một buổi hẹn vì công việc, giống như lần trước.

– Đó không phải là một câu trả lời, nhưng anh đã đoán trước được câu hỏi thứ hai của tôi. Anh làm nghề gì? Anh làm việc cho ai?

– Chúng ta cứ coi như tôi đang thực hiện nhiệm vụ đi.

Các ngón tay của Lucas bồn chồn gõ lên mặt khăn trải bàn.

– Nhiệm vụ kiểu gì? – Zofia hỏi tiếp.

Đôi mắt Lucas rời khỏi Zofia trong giây lát, một ánh mắt nào đó đã thu hút sự chú ý của hắn: từ cuối phòng, hắn vừa nhận ra Blaise, một nụ cười ranh mãnh hiện trên khóe môi.

– Chuyện gì thế? – Cô hỏi. – Anh cảm thấy không khỏe sao?

Lucas chợt biến đổi hẳn. Zofia hầu như không nhận ra người đã cùng cô trải qua một buổi tối đầy tình cảm mà cô chưa từng biết đến.

– Đừng hỏi tôi bất cứ câu gì, – hắn nói. – Cô ra tủ áo khoác, lấy áo măng-tô của cô rồi về nhà ngay đi. Ngày mai tôi sẽ liên lạc với cô, tôi không thể giải thích bất cứ điều gì với cô vào lúc này, tôi vô cùng xin lỗi.

– Anh làm sao thế? – Cô nói, vẻ mặt ngơ ngác.

– Cô đi đi, đi ngay cho!

Cô đứng dậy và băng ngang qua gian phòng. Bất cứ một tiếng động nào cũng không lọt khỏi tai cô: tiếng thìa dĩa rơi, tiếng ly cốc va nhau, một ông cụ chùi môi trên bằng chiếc mùi-xoa cũ ngang với tuổi của ông, một người phụ nữ trang phục xềnh xoàng đang nhìn bánh ngọt đầy vẻ thèm muốn, một doanh nhân đang đọc tờ báo đúng với dáng vẻ kinh doanh của mình, trên lối đi những bàn ăn có một cặp tình nhân không nói với nhau một tiếng nào kể từ lúc cô đứng lên. Cô dồn bước, cuối cùng thì các cửa thang máy cũng khép lại. Tràn ngập người cô chỉ còn lại những cảm xúc trái ngược nhau.

Cô chạy ra tới tận ngoài phố, nơi gió chặn bước cô lại. Trong chiếc xe đang bỏ chạy, chỉ còn lại cô và một nỗi buồn lạnh lẽo.

Khi Blaise ngồi vào chỗ mà Zofia vừa bỏ đi, Lucas siết chặt nắm đấm.

– Thế nào, công việc của chúng ta ra sao rồi? – Gã vui vẻ hỏi.

– Anh làm gì ở đây? – Lucas hỏi bằng giọng hoàn toàn không che giấu sự cáu giận của mình.

– Tôi phụ trách mảng thông tin nội bộ và đối ngoại, vì vậy tôi mới đến đây để trao đổi một chút thông tin… với anh!

– Tôi chẳng có việc gì phải báo cáo cho anh hết!

– Lucas, Lucas, thôi nào! Có ai nói gì đến báo cáo đâu cơ chứ? Chỉ đơn giản là tôi lo lắng cho sức khỏe con gà nòi của tôi nên mới đến, nhưng theo những gì tôi thấy, thì xem ra anh ta vẫn khỏe mạnh tuyệt vời.

Blaise có vẻ vừa ngọt ngào vừa thân thiện một cách giả tạo.

– Tôi đã biết trước là anh rất thông minh, nhưng lần này thì phải thú thật là tôi đã đánh giá anh quá thấp.

– Nếu như đó là tất cả những gì anh muốn nói với tôi, thì xin mời anh rời khỏi đây!

– Tôi đã theo dõi khi anh ru cô nàng bằng những bản dạ khúc của anh, và tôi công nhận tới đoạn tráng miệng thì anh gây cho tôi ấn tượng mạnh mẽ! Bởi vì đoạn đó, anh bạn thân mến ạ, thì quả là có hơi hướng thiên tài!

Lucas nhìn Blaise soi mói, cố tìm hiểu xem điều gì đã khiến gã đàn ông ngu xuẩn này hớn hở đến vậy.

– Tạo hóa đã chẳng hề tử tế đối với anh, Blaise ạ, nhưng thôi đừng tuyệt vọng. Rồi sẽ có ngày, một nữ tu sĩ nào đó sẽ phạm tội khá nặng đủ để chịu hình phạt phải nằm trong vòng tay anh vài tiếng đồng hồ!

– Đừng có vờ vĩnh tỏ ra khiêm tốn, Lucas, tôi hiểu hết và tôi đồng tình với anh. Sự thông minh của anh lúc nào cũng khiến tôi ngạc nhiên.

Lucas quay người lại ra hiệu cho người mang hóa đơn thanh toán đến cho hắn. Blaise hớt lấy và chìa thẻ tín dụng cho người phụ trách nhà hàng.

– Để đó, tôi sẽ trả!

– Chính xác ra là anh muốn nói đến chuyện gì đây? – Lucas vừa hỏi vừa giật lại tờ hóa đơn khỏi những ngón tay nhớp nháp của Blaise.

– Anh phải tin cậy tôi hơn nữa chứ. Tôi có cần phải nhắc để anh nhớ rằng nhờ có tôi nhiệm vụ này mới được giao cho anh không? Thôi, đừng có giả vờ làm những anh chàng ngốc nữa, cả hai chúng ta đều biết rõ rồi mà!

– Chúng ta biết cái gì cơ? – Lucas vừa nói vừa đứng lên.

– Biết cô ta là ai!

Lucas chậm rãi ngồi xuống và nhìn đăm đăm vào Blaise.

– Thế cô ấy là ai?

– Cô ấy là đối thủ, bạn của tôi ơi… đối thủ của anh!

Miệng Lucas hơi hé mở, giống như không khí đột nhiên trở nên ngột ngạt, Blaise tiếp tục:

– Là người phe bên kia cử tới để đối phó với anh. Anh là quỷ sứ của phe ta, cô ta là thiên thần của phe họ, là nhân viên ưu tú của họ.

Blaise cúi người lại gần Lucas, hắn bật lùi về phía sau.

– Đừng có khó chịu như vậy, anh bạn, – hắn nói tiếp, – nghề của tôi là phải biết tất cả. Đáng ra tôi phải khen ngợi anh mới đúng. Quyến rũ thiên thần sẽ không chỉ là một thành công của phe ta, phải nói là một chiến thắng rực rỡ mới đúng! Có đúng anh đang nghĩ như vậy không?

Lucas cảm nhận được một chút sợ hãi trong câu hỏi cuối cùng của Blaise.

– Chẳng phải nghề của anh là phải biết hết mọi thứ hay sao, anh bạn? – Lucas nói thêm bằng giọng mỉa mai pha lẫn tức giận.

Hắn rời khỏi bàn. Trong lúc băng ngang gian phòng, hắn nghe tiếng Blaise:

– Tôi cũng đến để nhắc anh hãy bật di động lên! Có người đang tìm anh đấy! Người mà anh đã tìm cách tiếp cận cách đây vài giờ đồng hồ đang mong có thể hoàn thành thỏa thuận ngay trong tối nay.

Cửa thang máy đóng lại che khuất Lucas. Blaise nhìn đĩa tráng miệng còn dở dang, gã ngồi xuống và thọc ngón tay nhớp nháp của gã vào lớp sô-cô-la.

Xe của Zofia chạy dọc đường Van Ness, trên đường đi tất cả các đèn đỏ đều chuyển sang màu xanh. Cô bật đài lên và dò sóng tìm kênh nhạc rock. Các ngón tay cô gõ lên vô-lăng theo nhịp, mỗi lúc một dồn dập và mạnh mẽ, cho tới khi cảm giác đau lan dần lên các đốt. Cô rẽ ngang lên Pacific Heights và đậu bừa xe ngay trước căn nhà nhỏ.

Các của sổ tầng trệt đều đã tắt đèn. Zofia leo lên tầng trên. Khi côđặt chân lên bậc thang thứ ba thì cánh cửa phòng bà Sherian hé mở. Zofia nhìn theo ánh đèn quét dọc trong bóng tối vào tận bên trong căn hộ của bà Reine.

– Bác đã cảnh cáo cháu từ trước rồi mà!

– Chào bà Reine.

– Hãy lại ngồi gần bác đây, tốt nhất là khi nào đi ra cháu hẵng chào bác. Có điều cứ xem vẻ mặt cháu thì có lẽ đến lúc đó bác cháu mình sẽ phải chào buổi sáng mất thôi.

Zofia bước lại gần chiếc ghế bành. Cô ngồi xuống thảm và tựa đầu vào thành ghế. Bà Reine nhẹ nhàng vuốt tóc cô trước khi cất lời:

– Bác hy vọng cháu có một câu hỏi chứ, phải không? Bởi vì bác đang có một câu trả lời đây!

– Quả thật cháu không biết nói thế nào với bác về cảm giác của cháu lúc này.

Zofia đứng lên, tiến về phía của sổ và vén rèm lên. Chiếc Ford dường như đang ngủ trên phố. Bà Reine nói tiếp:

Xe của Zofia chạy dọc đường Van Ness, trên đường đi tất cả các đèn đỏ đều chuyển sang màu xanh. Cô bật đài lên và dò sóng tìm kênh nhạc rock. Các ngón tay cô gõ lên vô-lăng theo nhịp, mỗi lúc một dồn dập và mạnh mẽ, cho tới khi cảm giác đau lan dần lên các đốt. Cô rẽ ngang lên Pacific Heights và đậu bừa xe ngay trước căn nhà nhỏ.

Các của sổ tầng trệt đều đã tắt đèn. Zofia leo lên tầng trên. Khi côđặt chân lên bậc thang thứ ba thì cánh cửa phòng bà Sherian hé mở. Zofia nhìn theo ánh đèn quét dọc trong bóng tối vào tận bên trong căn hộ của bà Reine.

– Bác đã cảnh cáo cháu từ trước rồi mà!

– Chào bà Reine.

– Hãy lại ngồi gần bác đây, tốt nhất là khi nào đi ra cháu hẵng chào bác. Có điều cứ xem vẻ mặt cháu thì có lẽ đến lúc đó bác cháu mình sẽ phải chào buổi sáng mất thôi.

Zofia bước lại gần chiếc ghế bành. Cô ngồi xuống thảm và tựa đầu vào thành ghế. Bà Reine nhẹ nhàng vuốt tóc cô trước khi cất lời:

– Bác hy vọng cháu có một câu hỏi chứ, phải không? Bởi vì bác đang có một câu trả lời đây!

– Quả thật cháu không biết nói thế nào với bác về cảm giác của cháu lúc này.

Zofia đứng lên, tiến về phía của sổ và vén rèm lên. Chiếc Ford dường như đang ngủ trên phố. Bà Reine nói tiếp:

Bác không hề có ý tò mò đâu. Mà suy cho cùng, nếu không thể, có muốn cũng chẳng được! Ở tuổi của bác, tương lai chẳng dài hơn một tầm mắt, mà nhất là đối với người bị lão thị như bác thì lại càng đáng lo ngại hơn. Mỗi một ngày trôi qua, bác nhìn về phía trước và có một cảm giác thật khó chịu là con đường dường như sẽ chỉ dừng lại ở đầu mũi giày của mình.

– Tại sao bác lại nói những điều này, bác Reine?

– Vì bác hiểu rõ sự rộng lượng của cháu, và cả sự e thẹn nữa chứ. Đối với một phụ nữ ở tuổi bác, được thấy những niềm vui, nỗi buồn của người mình yêu có thể ví như trời sắp tối mà đi thêm được hàng cây số dài. Những hy vọng, khao khát của giới trẻ các cháu nhắc cho những người như bác biết phía sau mình con đường vẫn tiếp tục trải dài, rằng những gì bác đã làm được trong cuộc sống cũng có ý nghĩa nhất định, dù là rất nhỏ … chỉ một chút xíu thôi cũng đáng để sống. Nào, giờ thì cháu hãy nói cho bác nghe có điều gì không ổn!

– Cháu chẳng biết!

– Điều cháu đang cảm thấy được gọi là nhớ nhung đấy!

– Có vô khối chuyện cháu muốn kể cho bác nghe.

– Cháu đừng lo, bác cũng đoán được rồi …

Bà Reine dùng ngón tay khẽ nâng cằm Zofia lên.

– Hãy để bác xem nụ cười của cháu thức dậy đi nào; chỉ cần một hạt giống hy vọng nhỏ xíu cũng có thể trồng được cả một cánh đồng hạnh phúc … chỉ cần thêm một chút kiên nhẫn để nó có thời gian nảy mầm thôi.

– Bác đã bao giờ yêu ai chưa, bác Reine?

– Cháu cứ nhìn tất cả những tấm ảnh cũ kỹ trong cuốn album kia mà xem, chúng chẳng còn dùng để làm gì nữa cả! Đa số những người có mặt trong ảnh đều đã khuất bóng từ lâu rồi, thế nhưng những tấm ảnh đó lại rất quan trọng đối với bác. Cháu có biết vì sao không? … Bởi vì bác là người đã chụp những tấm ảnh đó! Giá cháu có thể hình dung được bác mong ước đến chừng nào nếu đôi chân có thể một lần nữa dưa bác tới những nơi đó! Hãy tận dụng, Zofia! Hãy chạy ngay đi, đừng để mất thời gian nữa! Những ngày thứ Hai có đôi khi làm ta mệt mỏi, những ngày Chủ nhật thật buồn bã, song ơn Chúa, sự khởi đầu của mỗi tuần lễ mới dịu dàng êm ái làm sao!

Bà Reine xòe bàn tay ra, nắm lấy ngón trỏ của Zofia và miết nó dọc theo đường chỉ tay tượng trưng cho sự sống của bà.

– Cháu có biết Bachert là ai không, Zofia?

Zofia không trả lời, giọng bà Reine càng trở nên mềm mại hơn:

– Cháu nghe này, đây là câu chuyện đẹp nhất trên đời: Bachert chính là người mà Chúa đã chọn cho cháu, là một nửa còn lại của cháu, là tình yêu đích thực. Như vậy, cả đời cháu sẽ phải vận dụng toàn bộ trí thông minh chỉ để đi tìm anh ta… và nhất là để nhận ra anh ta.

Zofia nhìn bà Reine trong im lặng. Cô đứng lên, đặt một chiếc hôn âu yếm lên trán bà và chúc bà ngủ ngon. Trước khi đi ra, cô quay người lại để hỏi bà thêm một điều cuối cùng:

– Cháu rất muốn xem một trong số những cuốn album của bác, bác Reine ạ.

– Cuốn nào cơ? Cuốn nào mà cháu chẳng xem đi xem lại đến cả chục lần rồi!

– Cuốn kể về cuộc đời của bác, bác Reine ạ.

Rồi cánh cửa nhẹ nhàng khép lại sau lưng cô.

Zofia leo lên các bậc thang. Khi lên đến hành lang, cô chợt đổi ý, lại đi xuống gác mà không gây tiếng động nào và đánh thức chiếc Ford già cỗi dậy. Thành phố gần như vắng tanh. Cô lái xe xuống đường California . Đèn đỏ buộc cô dừng lại trước lối vào tòa nhà nơi cô đã ăn bữa tối. Người trông xe giơ tay vẫy cô thân thiện, cô quay đầu đi và nhìn khu Chinatown đang mờ dần ra phía bên trái cô. Qua khỏi đó vài tòa nhà, cô đậu xe dọc vỉa hè, đi bộ băng qua khoảng sân, đặt tay lên mảnh tường phía Đông của ngọn Kim tự tháp rồi bước vào trong sảnh.

Cô chào Pierre rồi đi về phía chiếc thang máy đưa cô lên tận tầng cao nhất. Khi cửa thang máy mở ra, cô đề nghị cho gặp Micheal. Cô tiếp tân xin lỗi, ngày mới đã bắt đầu ở phương đông và cha đỡ đầu của cô đang bận việc ở tận đầu kia trái đất.

Cô ngần ngừ, rồi thử hỏi xem cô có thể xin gặp Đức ông được không.

– Về nguyên tắc là được, nhưng lúc này thì có thể hơi khó một chút.

Cô tiếp tân không thể kìm lời trước vẻ mặt băn khoăn của Zofia.

– Với cô thì tôi hoàn toàn có thể nói được! Đức ông có một thói quen, có thể gọi là một thú tiêu khiển cũng được: tên lửa! Người vô cùng say mê cái trò đó! Việc con người phóng hàng loạt tên lửa lên bầu trời khiến ngài rất thích thú. Chẳng bao giờ Người bỏ lỡ một cuộc phóng tên lửa nào, Người nhốt mình trong phòng làm việc, bật tất cả các màn hình lên và không một ai có thể nói chuyện với Người được nữa. Chẳng giấu gì cô, vấn đề dần trở nên phức tạp kể từ khi người Trung Quốc cũng bắt đầu tham gia vào cái trò này!

– Thế hiện giờ đang có một đợt tên lửa chuẩn bị phóng lên hay sao? – Zofia hỏi, vẻ thản nhiên.

– Trừ trường hợp trục trặc kỹ thuật, còn nếu không thì giờ khởi hành đã được ấn định vào 37 phút và 24 giây nữa! Cô có muốn tôi nhắn lại gì tới Người không, có chuyện quan trọng phải không?

– Không, thôi đừng làm phiền Người, tôi chỉ muốn hỏi có một câu thôi, tôi sẽ quay lại sau vậy.

– Một lát nữa cô sẽ ở đâu? Hễ cứ truyền đạt những lời nhắn không hoàn chỉnh, y như rằng tôi sẽ được nhận được một lời phê bình khéo léo.

– Rất có thể tôi sẽ đi dạo dọc bến cảng, tôi nghĩ thế. Thôi, xin chúc một đêm phương tây êm ả, hoặc chúc một ngày phương đông tốt lành, tùy theo ý thích của cô đấy!

Zofia rời khỏi tháp. Một làn mưa nhẹ rơi, cô thong thả tản bộ ra xe rồi ngoặt lái về phía bến cảng số 80, một chỗ trú ẩn khác của cô trong thành phố.

Cô thèm bầu không khí trong lành, muốn nhìn thấy cây cối, và quyết định đi theo hướng bắc. Cô chạy xe vào Công viên Golden Gate theo lối Martin Luther King rồi lái lên tận hồ trung tâm. Dọc theo con đường nhỏ, những ánh đèn từ cột điện quét thành hằng hà sa số những quầng sáng trên bầu trời đầy sao. Đèn cao áp rọi sáng một túp lều bằng gỗ nơi người đi dạo tìm đến thuê du thuyền nhỏ vào những ngày đẹp trời. Bãi đậu xe vắng tanh, cô để chiếc Ford lại đó và đi bộ tới chiếc băng ghế bên dưới một cột đèn và ngồi xuống. Một con thiên nga lớn trắng muốt bị một làn gió nhẹ thổi tới lênh đênh trên mặt nước, hai mắt nhắm nghiền, trôi ngang qua một chú ếch ngủ quên trên bông súng. Zofia thở dài.

Cô thấy Người từ cuối con đường đang đi lên. Đức ông thơ thẩn bước, hai tay đút túi. Người trèo qua tấm lưới rào nhỏ và cắt ngang bãi cỏ, né những khóm hoa. Người tiến lại gần và ngồi xuống bên cạnh cô.

– Con đã xin gặp ta?

– Con không muốn làm phiền Người, thưa Đức ông.

– Con chẳng bao giờ làm phiền ta cả. Con có vấn đề gì phải không?

– Không, một câu hỏi ạ.

Đôi mắt của Đức ông lại sáng lên thêm một chút.

– Nếu vậy thì ta nghe con nói đây, con gái của ta.

– Chúng ta luôn dành hết thời gian để giảng giải về tình yêu, vậy mà những thiên thần như chúng con mới chỉ biết đến toàn lý thuyết. Vậy thì, thưa Đức ông, tình yêu trên thế gian thực ra là gì?

Người nhìn lên trời rồi ôm lấy vai Zofia.

– Đó là điều đẹp đẽ nhất mà ta đã sáng tạo ra! Tình yêu là một mảnh hy vọng, là sự hồi sinh bất diệt của thế giới, là con đường dẫn tới miền đất hứa. Ta đã tạo ra sự khác biệt để nhân loại gieo trồng sự hòa hợp: một thế giới đồng nhất sẽ buồn chán đến chết đi được! Hơn nữa, cái chết chỉ là một khoảnh khắc của cuộc sống đối với những người đã biết yêu và từng được yêu.

Zofia dùng đầu ngón chân bồn chồn vạch một hình tròn trên lớp sỏi.

– Thế chuyện về Bachert có phải là thật không?

Chúa trời mỉm cười và cầm lấy bàn tay cô.

– Một ý tưởng đẹp, có phải không? Người có thể tìm được một nửa kia của mình sẽ trở nên thành công hơn tất cả nhân loại. Con người nếu chỉ có một mình thì chẳng ý nghĩa chút nào – nếu như ta muốn vậy, ta chỉ việc sáng tạo ra một loại người thôi; thế nhưng chỉ khi một người bắt đầu biết yêu thì anh ta mới thực sự trở thành con người. Sự sáng tạo ra con người có thể không hoàn hảo, song chẳng có gì trong vũ trụ có thể hoàn hảo hơn hai con người yêu nhau.

– Giờ thì con đã hiểu hơn rồi, – Zofia vừa nói vừa vạch một đường thẳng ngay chính giữa vòng tròng của cô.

Người đứng dậy, đút lại tay vào túi và dợm bước, rồi Người lại đặt một tay lên đầu Zofia và nói bằng giọng nhẹ nhàng và đồng cảm:

– Ta sẽ cho con biết một bí mật lớn, chỉ có một câu hỏi và cũng là câu hỏi duy nhất mà ta vẫn tự đặt ra cho mình kể từ ngày đầu tiên: Có đúng thật là ta đã phát minh ra tình yêu hay không, hay tình yêu đã phát minh ra ta?

Vừa bỏ đi bằng những bước chân nhẹ bẫng, Chúa trời vừa ngắm bóng mình trong nước và Zofia nghe thấy tiếng Người làu bàu:

– Chỗ này gọi Đức ông, chỗ kia gọi Đức ông, đúng là ta phải tự tìm cho mình một cái tên trong ngôi nhà này mất thôi … chưa gì thì ta đã trở nên già cỗi với bộ râu này rồi.

Người quay lại và hỏi Zofia:

– Con nghĩ thế nào về cái tên Houston ?

Sững sờ, Zofia vừa nhìn Người bước đi, đôi tay với những ngón thon dài chắp lại sau lưng, Người vẫn còn tiếp tục lẩm bẩm một mình.

– Đức ông Houston , có lẽ thế… Không … Houston , tuyệt vời!

Rồi tiếng nói tắt ngắm sau gốc cây to.

Zofia ở lại một mình hồi lâu. Chú ếch ngồi chồm hỗm trên bông hoa súng nhìn cô đăm đăm, nó bật kêu ồm ộp hai tiếng, Zofia cúi người xuống và nói với chú:

– Sao nào, sao nào!

Zofia đứng lên, quay lại lấy xe và rời khỏi công viên Golden Gate. Từ trên đồi Nob Hill, chuông nhà thờ vừa điểm mười một tiếng.

Hai bánh xe trước của xe dừng quay chỉ cách cái gờ vài phân, tấm chắn bùn của chiếc Aston Martin chìa ra mặt nước. Lucas bước xuống và để cửa xe mở. Hắn đặt chân lên thanh chắn sốc phía sau xe, thở dài thật sâu và thay đổi ý định. Hắn lùi ra xa vài bước, cảm thấy đầu óc quay cuồng. Hắn cúi người xuống mặt nước và nôn thốc.

– Cậu có vẻ không được khỏe lắm thì phải!

Lucas đứng thẳng lên và nhìn chăm chăm vào ông lão ăn mày đang chìa cho hắn bao thuốc lá.

– Sợi nâu, hơi nặng nhưng phù hợp với hoàn cảnh, – ông Jules nói.

Lucas lấy một điếu, Jules chìa bật lửa của ông ra, ngọn lửa rọi sáng hai khuôn mặt trong giây lát. Hắn rít một hơi thật sâu và lập tức ho sặc sụa.

– Thuốc ngon lắm, – hắn vừa nói vừa ném đót thuốc ra xa.

– Dạ dày cậu trục trặc hả? – Jules hỏi.

– Không! – Lucas đáp.

– Vậy thì có lẽ là chuyện gì đó bực mình!

– Thế còn ông, Jules, chân ông thế nào rồi?

– Cũng như những phần còn lại, hơi khập khiễng!

– Nếu vậy thì quấn lại băng vào đó đi, trước khi nó bị nhiễm trùng, – Lucas vừa nói vừa bỏ đi.

Jules nhìn hắn đi về phía những tòa nhà cũ nát cách đó khoảng trăm mét. Lucas leo lên những bậc thang lỗ chỗ vết gỉ sét và tiến vào lối đi trên hiên dọc theo mặt tiền tầng một. Jules hét lên với hắn:

– Cái chuyện bực mình của cậu có mái tóc màu vàng hay màu nâu?

Song Lucas đã chẳng nghe thấy. Cánh cửa phòng làm việc duy nhất còn sáng đèn đã khép lại sau lưng hắn.

Zofia không muốn về nhà chút nào. Mặc dù việc Mathilde đến ở nhờ khiến cô rất thích, song cô cảm thấy mình bị mất góc riêng tư. Cô thả bộ dưới tòa tháp cổ xây bằng gạch đỏ mọc vươn cao trên những bến cảng trống trơn. Chiếc đồng hồ quả lắc khảm chìm vào nóc hình nón của tháp điểm nửa giờ. Cô tiến sát tới rìa bến tàu. Mũi con tàu chở hàng dập dềnh trong ánh sáng trăng pha lẫn một làn sương nhẹ.

– Ta rất yêu con tàu già nua này, nó và ta cùng tuổi với nhau đấy! Nó cũng kêu cọt kẹt mỗi lần di chuyển, nó còn han gỉ nhiều hơn cả ta đấy!

Zofia quay người lại và nở nụ cười với ông già Jules.

– Cháu chẳng ghét bỏ gì nó cả, nhưng nếu các dây thang của nó tốt hơn một chút, thì cháu sẽ càng yêu nó hơn.

– Đồ đạc dụng cụ chẳng can hệ gì đến cái tai nạn này cả.

– Sao bác biết?

– Bến cảng cũng là nơi tai vách mạch rừng, một vài lời chỗ này có thể ghép thành vài câu chỗ khác…

– Bác biết ông Gomez dã bị ngã như thế nào hay sao?

– Tất cả bí ẩn đều nằm ở chỗ đó. Nếu là một cậu trẻ tuổi thì người ta còn có thể tưởng là do một phút bất cẩn. Đã bao lâu rồi trên vô tuyến người ta vẫn cứ bảo lũ trẻ ngốc nghếch hơn các ông già nhiều … nhưng ta chẳng có vô tuyến và người công nhân đó quả là một anh lính già. Chẳng ai có thể tin nổi anh ta đã tự mình buông tay ngã lên thanh sắc được.

– Có lẽ ông ấy bị chóng mặt chăng?

– Cũng có thể, nhưng còn phải xem tại sao anh ta lại bị chóng mặt như vậy đã.

– Nhưng hình như bác đã nghĩ tới điều gì đó rồi!

– Trước hết là ta hơi lạnh, cái khí hậu ẩm ướt khó chịu này len lỏi vào tận xương ta, ta rất muốn tiếp tục cuộc bàn luận của hai bác cháu nhưng có lẽ để ra chổ khác đã. Gần cái thang dẫn lên khu văn phòng có một chỗ hình như có điều hòa nhiệt độ ấy, cháu không ngại nếu bác cháu ta cùng nhau đi vài mét chứ?

Zofia giơ cánh tay ra cho ông cụ. Họ đi nép dưới mái hiên chạy dọc theo mặt tiền. Ông Jules tiến vài bước để chọn chỗ thẳng ngay dưới cửa sổ duy nhất còn có ánh đen mặc dù trời đã khuya. Zofia biết hầu hết những người có tuổi thường có những thói gàn dở và nếu quý họ thì cần phải biết rằng không nên chống đối lại những thói quen ấy.

– Được rồi, ở đây tốt lắm, – ông nói, – chính chỗ này là chỗ tốt nhất cho chúng ta!

Hai người ngồi xuống chân tường. Ông Jules vuốt dọc theo li chiếc quần sọc muôn thuở của ông.

– Thế nào bác, – Zofia hỏi lại, – bác nghĩ sao về chuyện ông Gomez?

– Ta có biết gì đâu! Nhưng nếu cháu chịu nghe, rất có thể làn gió nhẹ này sẽ kể cho chúng ta nghe điều gì đó.

Zofia nhíu mày, nhưng ông già Jules đã đưa một ngón tay đặt lên môi. Trong sự yên lặng của bóng tối, Zofia nghe thấy giọng nói trầm trầm của Lucas vang lên trong phòng làm việc, ngay phía trên đầu cô.

Huert ngồi đầu chiếc bàn bằng phooc-mi-ca. Ông ta đẩy một gói nhỏ bọc bằng giấy bản tới trước mặt viên giám đốc phụ trách bất động sản của khu cảng. Terence Wallace đã chọn chỗ ngồi đối diện với Lucas.

– Một phần ba bây giờ. Một phần ba nữa sẽ đến khi ban cố vấn quản trị của ông bỏ phiếu ủng hộ việc trưng dụng các bến cảng và phần cuối cùng ngay sau khi tôi ký giấy ủy nhiệm độc quyền kinh doanh các khu đất, – ngài phó chủ tịch nói.

– Chúng ta đã thống nhất rằng hội đồng quản trị của ông sẽ phải họp nhau trước cuối tuần, – Lucas nói thêm.

– Thời hạn ngắn kinh khủng, – người đàn ông rên lên, ông ta vẫn còn chưa dám cầm lấy cái gói màu nâu.

– Các kỳ bầu cử sắp tới rồi! Tòa thị chính sẽ rất vui mừng được thông báo việc biến đổi một khu ô nhiễm thành một khu nhà ở sạch sẽ xinh xắn. Như thế có khác nào một món quà từ trên trời rơi xuống! – Lucas vừa tâng bốc vừa đẩy cái gói vào tay Wallace. – Công việc của ông có đến nỗi phức tạp lắm đâu!

Lucas đứng lên bước lại gần cửa sổ, mở hé cửa ra và nói thêm:

– Hơn nữa sắp tới ông cũng chẳng cần phải làm việc nữa… thậm chí ông còn có thể thẳng thừng từ chối cái chức vụ mà người ta sẽ nâng ông lên để cám ơn vì đã làm giàu cho họ…

– Vì đã tìm ra giải pháp cho một cơn khủng hoảng thấy trước! – Wallace giành lời bằng giọng điệu đà, vừa đưa một chiếc phong bì lớn màu trắng cho Ed.

– Giá trị của mỗi mảnh đất đều ghi rõ trong bản báo cáo bí mật này, – ông nói. – Ngài cứ chào giá cao hơn khoảng mười phần trăm thì hội đồng quản trị của tôi sẽ chẳng thể nào từ chối được ngài.

Wallace nắm lấy phần của mình và vui vẻ lắc lắc cái gói.

– Tôi sẽ cho triệu tập họ đông đủ chậm nhất vào thứ Sáu, – ông ta nói thêm.

Ánh mắt Lucas nhìn qua khe của kính chợt bị thu hút bởi một cái bóng nhẹ nhàng bỏ chạy phía bên dưới. Khi Zofia lên xe của cô, hắn có cảm giác như cô đang nhìn thẳng vào mắt hắn. Ánh đèn pha hậu của chiếc Ford biến mất đằng xa. Lucas cúi gằm mặt.

– Ông chẳng bao giờ có tâm trạng gì sao, Terence?

– Tôi có phải là người châm ngòi cuộc đình công này đâu! – Ông ta vừa đáp vừa bước ra khỏi phòng.

Lucas từ chối không để Ed đưa về và ở lại một mình.

Các gác chuông của Nhà thờ Grace điểm nửa đêm. Lucas khoác lên người chiếc áo gió và đút tay vào túi. Vừa mở cửa, hắn vừa mân mê bìa cuốn sách nhỏ đã xoáy được mà hắn lúc nào cũng mang theo. Hắn mỉm cười, ngắm nhìn những vì sao và ngâm nga:

– Cầu cho những đốm sáng trên bầu trời có thể chia cách ngày và đêm… cầu cho chúng trở thành những tín hiệu để chia cách ánh sáng và bóng tối.

Chúa Trời đã thấy như thế là tốt.

Trời đã tối, rồi trời lại sáng….


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.