Anne tỉnh giấc ba lần trong đêm và lò dò mò ra cửa sổ để đảm bảo rằng lời dự đoán của bác Abe không trở thành sự thật. Cuối cùng, ánh bình minh trong suốt lấp lánh chiếu trên bầu trời rực rỡ ánh bạc, và một ngày tuyệt vời bắt đầu.
Ngay sau bữa sáng Diana đã có mặt, một tay cầm giỏ hoa, tay kia vắt chiếc váy xa tanh của mình… vì phải chuẩn bị xong bữa trưa mới mặc được cái váy đó. Trong lúc chờ đợi, cô mặc một chiếc váy in họa tiết màu hồng và tạp dề vải ba tít diềm xếp nếp đẹp nhưng diêm dúa đến phát sợ, nhìn cô thật gọn gàng, xinh đẹp và tươi tắn.
“Trông cậu đáng yêu cực kỳ,” Anne thán phục.
Diana thở dài.
“Nhưng tớ vừa phải nới tất cả các bộ váy của mình một lần nữa. Tớ nặng thêm gần hai ký so với hồi tháng Bảy. Anne, chừng nào tớ mới thôi phì ra đây? Các bậc anh thư của bà Morgan đều cao và thanh mảnh cả.”
“Ồ, hãy quên đi ưu phiền và nghĩ tới những điều may mắn mà chúng ta có được,” Anne vui vẻ khuyên. “Cô Allan nói rằng mỗi khi có thứ gì khiến chúng ta khó chịu, chúng ta nên nghĩ đến những điều tốt đẹp để giúp chúng ta chống lại nó. Nếu cậu hơi tròn một chút thì cậu sẽ có nụ cười lúm đồng tiền dễ thương hết mức, và nếu tớ có một cái mũi đầy tàn nhang thì dù sao hình dáng của nó vẫn ổn. Cậu thấy nước chanh có tác dụng không?”
“Ừ, tớ thấy vậy mà,” Diana nghiêm túc nhận xét, và Anne vui sướng dẫn đường ra vườn, nơi bóng cây mát rượi và những tia nắng vàng óng rung rinh.
“Mình sẽ trang trí phòng khách trước. Chúng mình còn ối thời giờ, vì Priscilla nói họ sẽ đến đây vào khoảng mười hai giờ hoặc muộn nhất là mười hai rưỡi, vậy chúng ta sẽ dùng bữa trưa lúc một giờ.”
Dám chắc là chẳng có cô gái nào ở Canada hay ở Mỹ vui vẻ và hào hứng hơn hai người bạn này bây giờ. Mỗi khi một cành hồng, mẫu đơn, hoa chuông xanh rơi xuống, tiếng kéo xành xạch lại như reo vui, “Hôm nay bà Morgan tới.” Anne tự hỏi làm sao ông Harrison có thể thản nhiên cắt cỏ khô trên cánh đồng bên kia đường cứ như chẳng có chuyện gì xảy ra.
Phòng khách ở Chái Nhà Xanh vốn là một gian khá nặng nề và ảm đạm với nội thất màu lông ngựa cứng nhắc, màn đăng ten hồ cứng, áo ghế trắng luôn nằm ngay ngắn đúng nơi đúng chỗ, trừ những lúc nó bị vướng vào nút áo của một người không may mắn nào đó. Ngay cả Anne cũng chẳng tài nào nhúng tay làm phòng khách duyên dáng hơn, vì bà Marilla khăng khăng không cho phép thay đổi gì. Nhưng có điều kỳ diệu gì mà hoa lá không thể làm khi ta cho chúng cơ hội chứ; khi Anne và Diana trang trí xong, căn phòng đã hoàn toàn khác hẳn.
Một bát hoa tuyết xanh thật lớn xòe tung giữa cái bànlên nước bóng. Bệ lò sưởi đen bóng đặt đầy hoa hồng và dương xỉ. Mỗi ngăn tủ đều được trang trí một bó hoa chuông xanh, góc tối hai bên lò sưởi sáng lên bởi hai lọ hoa mẫu đơn đỏ thắm, còn trong lò như được thắp lửa bởi màu vàng của hoa anh túc. Với những đóa hoa lộng lẫy đủ màu ấy, kết hợp với ánh mặt trời xuyên qua đám dây kim ngân rợp lá leo trên cửa sổ tạo thành những bóng xám nhảy nhót trên tường và sàn nhà, căn phòng nhỏ ảm đạm thường ngày đã biến thành một “Vườn hoa” thực sự như trong trí tưởng tượng của Anne, đến bà Marilla cũng phải thốt lên ngưỡng mộ khi bước vào để phê phán nhưng rồi lại phải dừng chân khen ngợi.
“Giờ thì chúng ta phải bày bàn ăn thôi,” Anne nói với giọng của một nữ tu đang chuẩn bị thực hiện những nghi lễ thiêng liêng vinh danh một vị thần. “Chúng ta sẽ đặt một cái bình lớn cắm đầy hoa hồng dại ở giữa bàn và một bông hồng đằng trước đĩa của từng người – riêng đĩa của bà Morgan thì sẽ đặt một bó đầy những nụ hồng, ám chỉ quyển sách ‘Vườn nụ hồng’ đấy, cậu biết mà.”
Bàn ăn được dọn trong phòng ăn, với khăn ăn vải lanh đẹp nhất cũng như đồ sứ, thủy tinh và đồ bạc hạng nhất của bà Marilla. Có thể hoàn toàn chắc chắn rằng mỗi dụng cụ trên bàn đều được đánh bóng, kỳ cọ đến mức long lanh lấp lánh hoàn hảo nhất.
Rồi các cô gái nhún nhảy bước xuống bếp, mùi thơm phức tỏa ra từ lò nướng nơi hai con gà đang kêu xèo xèo. Anne gọt khoai tây và Diana nhặt đậu cô ve cùng đậu Hà Lan. Sau đó, khi Diana chui vào phòng lương thực để chế biến món rau diếp trộn, Anne với đôi má đã bắt đầu ửng đỏ vì ánh lửa cũng như vì hào hứng, ra tay chuẩn bị nước xốt bánh mì cho món gà, băm nhỏ hành cho món xúp rồi đánh kem cho món bánh nướng chanh.
Trong suốt thời gian kể trên, Davy đang ở đâu? Liệu nó có tuân thủ lời hứa sẽ ngoan ngoãn không? Nó quả có nghe lời. Đương nhiên, nó nằng nặc đòi ở lại trong bếp vì tò mò muốn quan sát mọi chuyện. Nhưng vì nó ngồi ngoan ngoãn trong góc, bận bịu tháo những nút thắt trong một mảng lưới đánh cá trích mang về từ lần ra bãi biển kỳ trước, chẳng ai phản đối sự có mặt của nó cả.
Lúc mười một rưỡi, món rau diếp trộn đã xong xuôi, bánh nướng vàng rộm được phủ đầy kem tươi, mọi thứ cần sôi xèo xèo hay sôi sùng sục đều đang xèo xèo và sùng sục.
“Chúng ta đi thay váy thôi,” Anne nói, “Vì có thể bọn họ sẽ đến vào mười hai giờ. Chúng ta phải ăn trưa đúng một giờ, vì món xúp phải được dọn lên ngay sau khi sôi.”
Những nghi thức trang điểm diễn ra hết sức nghiêm túc ở chái Đông. Anne lo lắng quan sát cái mũi và vui sướng nhận thấy mấy nốt tàn nhang không hề nổi rõ, không biết là do nước chanh hay nhờ vào vẻ ửng hồng khác thường của đôi má cô. Khi đã sẵn sàng, hai cô gái trông ngọt ngào, gọn gàng và trong sáng như mọi “bậc anh thư của bà Morgan”.
“Tớ thực sự hy vọng thỉnh thoảng mình có thể nói được chút gì chứ không ngồi câm như hến,” Diana lo lắng. “Mọi nhân vật nữ chính của bà Morgan đều nói chuyện rất hay. Nhưng tớ sợ mình sẽ ngọng nghịu và ngu ngốc. Và chắc chắn tớ sẽ nói thành ‘tôi tháy’. Từ khi học với cô Stacy tớ không thường nói vậy nữa, nhưng vào những lúc quá hồi hộp, nhất định là tớ sẽ buột miệng thôi. Anne, nếu tớ mà lỡ nói “tôi tháy” trước mặt bà Morgan, tớ sẽ chết vì nhục mất. Nhưng nếu không có gì để nói thì cũng tệ không kém.”
“Tớ lo lắng về nhiều chuyện lắm,” Anne nói, “nhưng riêng chuyện có thể nói được hay không thì tớ không nghĩ rằng có gì đáng e ngại”.
Và quả tình Anne không cần sợ thật.
Anne phủ một chiếc tạp dề lớn lên trên bộ đồ xa tanh lộng lẫy của mình và đi xuống khuấy xúp. Bà Marilla cũng ăn diện cho mình và hai đứa song sinh, nhìn bà có vẻ hào hứng hơn hẳn lúc trước. Lúc mười hai giờ rưỡi, ông bà Allan và cô Stacy tới. Mọi thứ đều ổn nhưng Anne bắt đầu cảm thấy bất an. Rõ ràng giờ này Priscilla và bà Morgan phải đến nơi rồi chứ. Cô không ngừng chạy ra cửa và lo lắng nhìn xuôi con đường cứ như nhân vật trùng tên với mình trong truyện “Yêu râu xanh” nhòm xuống từ cửa sổ tháp canh.
“Lỡ họ không tới thì sao?” cô rên rỉ.
“Đừng có giả sử vậy. Nếu thế thì quá rủi đi,” Diana nói nhưng cũng bắt đầu cảm thấy có chút nghi ngại.
“Anne,” bà Marilla gọi, bước ra khỏi phòng khách, “cô Stacy muốn xem cái đĩa men Trung Hoa của cô Barry.”
Anne vội chạy đến cái tủ trong phòng ăn để lấy đĩa. Theo đúng lời hứa với bà Lynde, cô đã viết thư cho cô Barry ở Charlottetown xin mượn cái đĩa. Cô Barry là một người bạn lâu năm của Anne, vì vậy cô đã nhanh chóng gửi cái đĩa cho Anne cùng một lá thư dặn dò Anne phải giữ gìn nó hết sức cẩn thận, vì cô đã mua cái đĩa đó mất hai mươi đô la. Cái đĩa đã làm tròn trách nhiệm của mình ở hội chợ từ thiện và sau đó quay trở về kệ tủ ở Chái Nhà Xanh, vì Anne không tin tưởng ai ngoại trừ chính mình có thể đem nó lên thị trấn an toàn.
Cô cẩn thận đem cái đĩa men ra cửa trước nơi các vị khách đang ngồi tận hưởng làn gió mát từ suối thổi tới. Mọi người vừa xem xét vừa tấm tắc khen ngợi cái đĩa, rồi khi Anne vừa định chính tay đem trả nó về chỗ cũ thì chợt có tiếng rơi vỡ loảng xoảng vang lên từ phòng lương thực. Bà Marilla, Diana và Anne chạy ào vào, Anne chỉ kịp dừng lại chốc lát để đặt vội cái đĩa quý giá lên bậc thang thứ hai của cầu thang.
Bước vào phòng lương thực, trước mắt họ là một cảnh tượng thật đau lòng… một cậu bé vẻ hối lỗi lúi húi tuột từ trên bàn xuống, cái áo vải in họa tiết sạch sẽ lúc đầu giờ dính đầy nhân bánh vàng, và trên bàn là dấu tích còn lại của thứ đã từng là hai cái bánh nướng chanh phết kem ngon mắt.
Davy đã gỡ xong cái lưới cá trích rồi quấn dây cước thành một cuộn tròn. Sau đó nó đi vào phòng lương thực để cất cuộn cước lên cái kệ phía trên bàn, nơi hiện đang cất giữ mấy chục cuộn tương tự. Tác dụng duy nhất được khám phá cho đến nay của đống cước chỉ là mang lại niềm vui sở hữu cho cậu chủ nhỏ của chúng. Davy phải leo lên bàn rồi chồm lên kệ ở một góc độ nguy hiểm… Bà Marilla đã cấm tiệt nó không được làm vậy vì nó đã nếm mùi đau đớn một lần rồi. Lần này kết quả thật là thảm họa. Davy trượt chân té thẳng úp người vào bánh nướng chanh. Cái áo sạch bị vấy bẩn tạm thời, còn hai chiếc bánh nướng thì vĩnh viễn không còn cơ hội lên đĩa được nữa. Dù sao thì cái rủi của người này lại là cái may của người khác, con lợn cuối cùng lại là kẻ hưởng lợi từ vụ rủi ro của Davy.
“Davy Keith,” bà Marilla lắc mạnh vai nó, “chẳng phải ta đã cấm cháu không được trèo lên bàn nữa sao? Có hay không?”
“Cháu quên mất,” Davy thút thít. “Bà cấm cháu nhiều điều khủng khiếp nên cháu chẳng tài nào nhớ được hết cả.”
“Hừ, cháu hãy lên lầu và ở đó cho tới sau bữa trưa đi. Có lẽ đến lúc ấy cháu sẽ nhớ ra hết đấy. Không, Anne, cháu không cần bào chữa cho nó. Ta không phạt vì nó làm hỏng bánh của cháu… đó chỉ là rủi ro. Ta phạt vì nó không vâng lời. Đi, Davy, ta đã bảo rồi mà.”
“Vậy cháu có được ăn trưa không?” Davy gào lên.
“Sau bữa trưa cháu có thể đi xuống ăn trong bếp.”
“Ồ, vậy thì được,” Davy được an ủi phần nào. “Cháu biết cô Anne sẽ để dành vài miếng ngon cho cháu, phải không cô Anne? Cô biết đấy, cháu không cố ý ngã lên bánh mà. Cô Anne ơi, dù sao thì chúng cũng đã hỏng rồi, cháu có thể lấy một miếng lên lầu được không?”
“Không, cậu Davy, không một miếng bánh nào cả,” Bà Marilla đầy nó ra hành lang.
“Vậy chúng ta làm gì để tráng miệng đây?” Anne tiếc nuối nhìn đống bánh vụn vỡ tan.
“Lấy một lọ mứt dâu đi,” bà Marilla an ủi. “Còn nhiều kem tươi trong bát mà.”
Một giờ chiều… nhưng chẳng thấy Priscilla hay bà Morgan đâu. Anne như bò trên chảo nóng. Các món ăn đều đâu vào đó còn xúp thì ngon lành cành đào, nhưng không thể để lâu hơn nữa.
“Ta nghĩ là họ sẽ không tới đâu,” bà Marilla bực bội.
Anne và Diana nhìn vào mắt nhau tìm kiếm sự an ủi.
Tới một giờ rưỡi, bà Marilla một lần nữa đi ra khỏi phòng khách.
“Các cô gái, chúng ta phải dùng bữa trưa thôi. Mọi người đã đói meo rồi và đợi lâu hơn cũng chẳng để làm gì. Rõràng là Priscilla và bà Morgan sẽ không tới, và chờ đợi cũng chẳng ích gì.”
Anne và Diana lúi húi dọn bữa trưa, nhưng chẳng cònchút hào hứng nào.
“Chắc tớ sẽ chẳng ăn nổi một miếng nào mất,” Diana buồn rũ.
“Tớ cũng thế, nhưng tớ hy vọng bữa ăn sẽ tốt đẹp vì cô Stacy và ông bà Allan,” Anne thờ thẫn đáp.
Khi Diana múc đậu ra, cô nếm một miếng rồi mặt lộ vẻ kỳ quái.
“Anne, cậu có cho đường vào không?”
“Có,” Anne tán nhuyễn khoai tây một cách miễn cưỡng. “Tớ bỏ một muỗng đường vào. Nhà tớ luôn làm vậy. Cậu không thích sao?”
“Nhưng tớ cũng cho một muỗng khi đặt lên bếp,” Diana nói.
Anne bỏ cái nghiền khoai xuống và nếm thử đậu. Rồi cô nhăn mặt.
“Ghê quá! Tớ không ngờ cậu bỏ đường vào, vì tớ biết mẹ cậu không bao giờ làm vậy. Không hiểu sao tớ lại tình cờ nhớ tới chuyện đó… tớ vốn hay quên lắm… nên tớ bỏ vào một muỗng đầy.”
“Chắc là quá nhiều đầu bếp nên mới ra nông nỗi này,” bà Marilla nói với vẻ mặt khá hối hận sau khi lắng nghe cuộc trò chuyện của hai cô gái. “Ta không nghĩ là cháu nhớ bỏ đường, Anne ạ, vì ta hoàn toàn chắc là trước nay cháu chẳng bao giờ nhớ cả… nên ta cũng bỏ vào một muỗng.”
Các vị khách trong phòng khách nghe hết tràng cười này đến tràng cười khác vang lên từ bếp, nhưng họ chẳng bao giờ biết được nguyên nhân cả. Dù sao thì cũng không có món đậu trên bàn ăn trưa hôm đó.
“Ôi,” Anne bình tĩnh lại rồi thở dài điểm danh các món ăn, “dù sao thì chúng ta cũng còn món rau trộn, và món đậu cô ve chắc chẳng bị ảnh hưởng gì. Hãy dọn đồ ăn lên cho xong việc thôi.”
Không thể nói bữa ăn trưa hôm đó thành công về mặt xã giao. Gia đình Allan và cô Stacy cố gắng hết sức cứu vãn tình hình và vẻ thản nhiên thường lệ của bà Marilla cũng không bị khuấy động mấy. Nhưng Anne và Diana thì chìm đắm trong nỗi thất vọng và sau cú sốc hồi sáng họ chẳng thể nói năng ăn uống gì được. Anne anh dũng cố gắng tham gia vào cuộc trò chuyện vì các vị khách của mình, nhưng bây giờ mọi ánh sáng đã rời khỏi cô và mặc dù cô rất yêu quý gia đình Allan và cô Stacy, cô vẫn không thể không nghĩ sẽ tuyệt vời biết bao nếu mọi người về nhà ngay để cô có thể đập đầu vào gối, chìm đắm trong mệt mỏi và thất vọng ở chái Đông.
Có một câu ngạn ngữ cũ rất ứng nghiệm: “Họa vô đơn chí.” Những khổ nạn của ngày hôm đó vẫn chưa kết thúc. Ngay khi ông Allan vừa nói xong lời cảm ơn, một âm thanh kỳ lạ đáng sợ vang lên nơi cầu thang, như thể có một vật cứng nặng nảy xuống từng bậc rồi kết thúc bằng một tiếng vỡ lớn ở dưới cùng. Mọi người chạy ngay ra hành lang. Anne rú lên kinh hãi.
Dưới chân cầu thang là một vỏ ốc xà cừ lớn màu hồngnằm giữa những mảnh vỡ vốn từng là cái đĩa men xanh của cô Barry, và ở đầu cầu thang, Davy quỳ gối vẻ khiếp hãi, mắt mở to nhìn cảnh tàn phá bên dưới.
“Davy,” bà Marilla gầm lên, “cháu cố ý ném con ốc xà cừ ấy xuống hả?”
“Không, cháu không mà,” Davy thút thít. “Cháu chỉ quỳ gối ở đây, im phăng phắc quan sát mọi người qua tay vịn cầu thang, rồi chân cháu va phải cái đồ cũ rích ấy khiến nó lăn xuống… và cháu đói khủng khiếp… và cháu thực sự mong bà cứ đánh quách cháu cho xong, chứ đừng tống cháu lên lầu buồn chán chết đi được.”
“Đừng trách Davy,” Anne vừa nói vừa dọn dẹp những mảnh vỡ, tay run lẩy bẩy. “Đó là lỗi của cháu. Cháu để cái đĩa ở đó rồi quên khuấy mất. Cháu đáng bị trừng phạt vì sự vô ý của mình, nhưng chao ôi, cô Barry sẽ nói gì đây?”
“Ồ, cậu biết là cô ấy chỉ mua cái đĩa này thôi, nên nó không quan trọng như một món đồ gia truyền đâu,” Diana cố an ủi.
Các vị khách rời đi ngay sau đó, cho rằng đó là điều lịch thiệp nhất nên làm, rồi Anne và Diana rửa chén đĩa, những lời trao đổi với nhau ít đến kỷ lục. Sau đó Diana quay về nhà vởi cái đâu nhức ong ong, còn Anne thì mang một cái đầu nhức khác lên chái Đông, ở lì trong đó cho tới khi bà Marilla từ bưu điện về nhà lúc hoàng hôn, cầm theo một lá thư của Priscilla gửi ngày hôm trước. Bà Morgan bị bong gân mắt cá nặng đến mức không thể rời phòng.
“Và chao ôi, Anne yêu quý,” Priscilla viết, “tớ hết sức xin lỗi nhưng tớ e là dì cháu tớ không thể nào ghé qua Chái Nhà Xanh được, vì lúc mắt cá của dì tớ khỏi hẳn thì dì ấy phải quay lại Toronto mất rồi. Dì ấy không thể dời ngày về được.”
“Ôi,” Anne thở dài, đặt lá thư xuống bậc thềm đá đỏ ở cổng sau, cô đang ngồi đó trong ánh chiều chập choạng phủ xuống từ bầu trời loang lổ, “mình luôn cho rằng việc bà Morgan đến đây quá tốt đẹp để trở thành sự thật. Nhưng này… câu nói đó nghe bi quan như là giọng của cô Eliza Andrews vậy, và mình thật xấu hổ khi thốt ra miệng. Dù sao chăng nữa, chuyện đó đâu có quá tốt đẹp đến mức không thực… còn nhiều việc tốt đẹp hơn thế nữa vẫn thường xuyên xảy đến với mình đấy thôi. Với lại mình cho rằng những chuyện xảy ra trong ngày hôm nay cũng có mặt tức cười của chúng. Có lẽ khi mình và Diana đã già héo cả ra, chúng mình sẽ có thể phá lên cười khi nhớ lại. Nhưng giờ thì mình cảm thấy mình chưa làm được vậy, vì hôm nay đúng là một ngày thất vọng cay đắng.”
“Cháu có thể còn gặp rất nhiều thất vọng nặng nề hơn thế trong cuộc đời,” bà Marilla nói, cho rằng mình đang an ủi Anne. “Anne ạ, ta thấy cháu sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi cái thói dốc hết lòng hết sức để làm một việc gì đó, rồi sau đó rơi xuống tuyệt vọng vì không đạt được nó.”
“Cháu biết là cháu có khuynh hướng đó thật,” Anne buồn bã đồng ý. “Khi cháu nghĩ sắp có chuyện gì đó thật hay xảy ra, cháu như được chắp đôi cánh chờ mong bay lên thật cao; rồi sau đó cháu đột nhiên nhận ra mình bị rớt cái bịch xuống mặt đất. Nhưng thật ra, bác Marilla ạ, bay bổng như vậy hết sức tuyệt vời, ít nhất là trong khi còn đang bay… cứ như vút lên trong ánh hoàng hôn vậy. Cháu nghĩ có ngã cái rầm cũng gần như là đáng giá.”
“Ừ, có lẽ là thế thật,” bà Marilla thừa nhận. “Có điều ta thà đi bộ thong dong mà chẳng cần bay hay té ngã làm gì. Nhưng mỗi người có một cách sống khác nhau… ta từng nghĩ chỉ có một cách đúng đắn mà thôi… nhưng từ khi ta nuôi dạy cháu và hai đứa sinh đôi, ta không còn chắc chắn về điều đó nữa. Cháu định xử lý chuyện cái đĩa men của cô Barry thế nào?”
“Trả lại cho cô ấy số tiền hai mươi đô mà cô ấy đã bỏ ra mua nó, chắc thế thôi ạ. Cháu hết sức biết ơn Chúa khi nó không phải là một vật quý gia truyền, bởi vì nếu vậy thì chẳng tiền nào có thể thay thế được.”
“Có lẽ cháu nên tìm xem có cái đĩa nào giống vậy mà mua trả lại cho cô ấy.”
“Cháu e là không được. Cái đĩa xưa như vậy rất hiếm. Bà Lynde còn chẳng tìm được cái nào cho bữa tối từ thiện mà. Cháu chỉ ước chi mình có thể tìm được, vì đương nhiên cô Barry sẽ không để ý nếu cháu trả lại cho cô ấy cái đĩa cổhàng thật giống cái bị vỡ. Bác Marilla ơi, nhìn ngôi sao to phía trên khu rừng phong của ông Harrison kìa, với bầu trời bạc mang vẻ thần thánh xung quanh nữa. Nó khiến cháu có cảm giác như mình đang cầu nguyện. Xét cho cùng, một khi có thể nhìn thấy bầu trời và những ngôi sao như vậy, những thất vọng và rủi ro nhỏ nhoi chẳng đáng gì, phải không?”
“Davy đâu?” Bà Marilla liếc nhìn ngôi sao chẳng có chút hứng thú gì.
“Trên giường. Cháu đã hứa mai sẽ dẫn nó và Dora đi dã ngoại ở bờ hồ. Đương nhiên, thỏa thuận ban đâu là nó phải ngoan ngoãn. Nhưng nó đã cố gắng ngoan ngoãn… mà cháu thì không nỡ làm nó thất vọng.”
“Cháu hay hai đứa nhỏ sẽ chết đuối mất thôi khi chèo cái thuyền dỏm đó trên hồ,” bà Marilla làu bàu. “Ta đã sống ở đây sáu chục năm trời mà chẳng bao giờ đặt chân tới cái hồ đó.”
“Ồ, vẫn chưa quá muộn đâu,” Anne tinh nghịch. “Hay là mai bác đi với bọn cháu đi. Chúng ta sẽ đóng cửa Chái Nhà Xanh và dành cả ngày trên bờ hồ, gạt bỏ cả thế giới qua một bên.”
“Không, cảm ơn,” bà Marilla gằn giọng phẫn nộ. “Nhìn ta chắc sẽ đẹp mặt lắm khi chèo lòng vòng quanh hồ trên một cái thuyền nhỉ? Chưa gì ta đã nghe thấy tiếng Rachel bày tỏ ý kiến về hành động đó rồi đây này. Kìa, ông Harrison đang đánh xe đi đâu đó thì phải. Cháu có cho lời đồn ông Harrison đang cưa cẩm Isabella Andrews là thật không?”
“Không, cháu chắc là không đúng đâu. Ông ấy chỉ ghé qua một buổi chiều để bàn chuyện làm ăn với ông Harmon Andrews, bà Lynde nhìn thấy và tuyên bố là biết ngay ông ấy đang đi cưa cẩm vì ông ấy mặc áo cổ cồn trắng. Cháu không tin ông Harrison chịu lập gia đình đâu. Ông ấy dường như có thành kiến với hôn nhân.”
“Ôi, đám đàn ông độc thân già đấy khó nói lắm. Và nếu ông ta mặc áo cổ cồn trắng thật thì ta đồng ý với Rachel là rất đáng nghi, vì ta chắc chắn chưa từng thấy ông ta mặc áo cổ cồn trắng lần nào.”
“Chắc ông ấy mặc thế chỉ vì muốn ký một hợp đồng làm ăn với ông Harmon Andrews mà thôi,” Anne nói. “Cháu có nghe ông ấy nói rằng đó là lúc duy nhất một người đàn ông cần phải quan tâm đến bề ngoài, vì nếu ông ta nhìn có vẻ giàu có thì phía bên kia ít có khả năng lừa ông ta hơn. Cháu cảm thấy thương cho ông Harrison; cháu không tin rằng ông ấy hài lòng với cuộc sống hiện tại của mình. Chắc là rất cô đơn khi chẳng có ai khác để quan tâm ngoài một con vẹt, bác có nghĩ vậy không? Nhưng cháu để ý thấy ông Harrison không thích bị thương hại. Không ai thích thế, cháu nghĩ vậy.”
“À, Gilbert đến kìa,” bà Marilla nói. “Nếu cậu ta muốn rủ cháu đi chèo thuyền thì cháu đừng quên mặc áo khoác và đi ủng cao su vào nhé. Tối nay sương nhiều đấy.”