Do đã đính hôn nên thi thoảng Phó Nguyên Tranh cũng sẽ qua nhà họ Lục. Hôm nay thời tiết đẹp, ngọc lan trong vườn nhà họ Lục mới ra hoa, còn hoa thái bình thì đã nở bung.
“Nghe nói Lục công tử được phong làm Đãi chế* ở Bảo Chương các?”
* tên một chức quan
Uyển Ngọc trốn giữa những bông hoa, nhìn ngang nhìn dọc, và tiếng “Lục công tử” mang nhiều ý trêu chọc.
Phó Nguyên Tranh nhìn nàng, chỉ cười dịu dàng: “Con đường làm quan còn chưa tiến được nửa bước, không dám nhắc tới.”
Uyển Ngọc nghe thế thì càng cảm thấy hắn khiêm tốn, không hề ngạo mạn do thi đỗ đạt, vì vậy nàng càng thích hắn hơn. Nàng chợt hái một bông rồi chạy đến trước mặt hắn, cười duyên: “Bông này đẹp quá, chàng quỳ xuống đi, ta cài lên cho.”
Hắn nắm lấy tay nàng, lắc đầu mà nói: “Đơn điệu quá.”
Uyển Ngọc mặc hắn nắm tay, cười hì hì chọc hắn: “Cũng phải, tiền đồ của Lục công tử xán lạn, nên cài đủ màu sắc trên đầu mới đúng.”
Hắn nghe vậy liền kéo mạnh nàng vào trong lòng, nói khẽ: “Dám cười ta, phải phạt nàng.”
“Phạt gì?” Nàng ngẩng đầu, lồng ngực phập phồng.
Ánh mắt hắn tối lại, giơ tay lên giữ cằm nàng, khẽ vuốt ve, sau đó hắn cúi người hôn lên giữa đôi lông mày nàng, nơi đó có một nốt ruồi nho nhỏ.
***
Lập hạ năm nay đã mưa lại còn có sấm.
Lúc Phó Nguyên Tranh đi ra từ trong cung thì không lên xe ngựa nhà mình, mà cứ dầm mưa loạng choạng bước, dường như trái tim đã bị khoét đi.
Tứ hôn cho công chúa Gia Thuần – đây lẽ ra nên là chuyện mà đàn ông trong thiên hạ ai ai cũng lấy làm vinh hạnh. Tuy mẫu thân của Gia Thuần mất sớm, nhưng nhà ngoại lại là thế gia vọng tộc, làm quan qua nhiều thế hệ, căn cơ đã rất sâu. Hơn nữa, nghe nói nàng ta có dung mạo đẹp nhất, người lại thông minh, luôn luôn được thánh thượng vô cùng yêu thích. Từ nhỏ nàng ta đã được nuôi dưỡng ở bên cạnh người. Sau khi lớn lên, thánh thượng còn ban cho nàng quyền được tự lựa chọn phò mã. Hôm nay nàng chẳng chọn ai khác, mà lại chọn trúng hắn – Phó Nguyên Tranh.
Thánh chỉ đã ban, không thể sửa lại được.
Lúc xuất cung, hắn nhìn thấy một nhóm người hầu bê từng chậu cây hoa trà trắng đi qua trước mắt. Do thấy quen quen nên hắn không khỏi đứng lại mà nhìn kỹ hơn. Kẻ dẫn đường liền cười nịnh nọt: “Phò mã cũng thích hoa trà trắng này sao? Đây là loại hoa công chúa Gia Thuần thích nhất đó.”
Ngày ấy, Phó Nguyên Tranh được tôi tớ trong nhà khiêng về từ quán rượu ở phía nam thành. Hắn luôn luôn sống điều độ, không uống rượu, vậy mà lần này say tới mức không biết trời đất là gì. Lúc tỉnh lại, người đầu tiên hắn gặp là Phó Nguyên Đạc.
Phó Nguyên Đạc lẳng lặng đút cho hắn canh giải rượu. Hắn khép hờ mắt, không nói câu gì.
“Lúc chiều đệ vào cung ấy, Uyển Ngọc có tới tìm.” Một lúc lâu sau Phó Nguyên Đạc mới mở miệng.
“Mai đệ sẽ đi gặp nàng ấy.” Hắn đáp, sau đó bỗng mở mắt, nhìm chằm chằm Phó Nguyên Đạc: “Tứ ca – không có lời nào khác muốn nói với đệ?”
Tứ ca cũng nhìn hắn, muốn nói lại thôi.
Hắn cười lạnh lùng: “Huynh không có lời nào muốn nói, nhưng đệ lại có câu cần hỏi đây. Không biết tứ ca có thể vì người mình yêu mà không màng tất cả?”
Phó Nguyên Đạc ngẩn người, chỉ cười khổ: “Nếu đệ đã biết rồi thì ta cũng không ngại trả lời, nếu có thể đẹp cả đôi đường thì ta sẽ không hấp tấp.”
Ngày hôm sau hắn liền chạy thẳng về phòng sau khi trở về từ nhà họ Lục. Vừa rồi nàng còn vui vẻ mà nói với hắn, muốn tự nung của hồi môn… Làm sao hắn có thể bội bạc một người con gái như vậy?
Nhưng vừa vào đến phòng thì hắn liền ngẩn người.
Phó Nguyên Đạc ngồi bên trong phòng như một bức tượng Phật bằng đá, có vẻ đã đợi hắn lâu lắm rồi.
“Sao vậy? Tứ ca?”
Ánh mắt Phó Nguyên Đạc đảo khẽ, hắn chỉ bàn cờ đối diện rồi nói nhẹ: “Lục đệ, ta có một thế cờ, vốn là thế cờ đầu ván của một người khác, có 36 quân, đệ có muốn đấu cùng ta?”
Phó Nguyên Tranh ngẩn ra, vào thời khắc sống còn này còn đi chơi cờ, không biết tứ ca hắn nghĩ gì nữa??
Lúc bắt đầu, Phó Nguyên Đạc lên tiếng: “Ta không đồng ý.”
Vì sao? Phó Nguyên Tranh không phục. Do trong lòng không yên nên đến giữa ván lại thua tiếp.
Trong lúc đánh, Phó Nguyên Đạc lại nói: “Nếu đệ cứ cố chấp kháng chỉ thì không những sẽ diệt cả cái nhà này, mà cả đời nàng ta chắc chắn cũng chẳng cần dùng tới mấy thứ của hồi môn đó.”
Chưa tới lúc thu quân thì hắn đã thua thảm hại. Đây là lần đầu tiên hắn thua Phó Nguyên Đạc, mà lại còn thảm bại.
Phó Nguyên Đạc nhìn hắn, chầm chậm thở dài, cuối cùng mới nói ý sâu xa: “Đâu phải là không cho lấy, chỉ là ngày tháng muộn hơn thôi. Lẽ nào như thế cũng không đợi được?”
Phó Nguyên Tranh cười lạnh lùng, sau này lấy nàng thì nàng không phải thê (*ý là chỉ làm thiếp). Hắn nhìn chằm chằm vào thế cờ đã tàn, không nói không động đậy, như đã mất hồn.
Tối tới, hắn đi lại trong viện như hồn ma, trái tim lúc thì rối như tơ vò, lúc thì như bị khoét rỗng, có cơn gió lạnh còn chuẩn bị ào xuyên qua. Hắn đã đi tới hậu viện từ bao giờ. Hậu viện có một nhà thiền, ngày thường cũng chỉ có người làm tới quét dọn, vậy mà bây giờ lại có ánh nến bên trong.
Hắn đi đến gần, thấy là thúc thúc hắn cùng tứ ca.
“Triều đình bây giờ, bề ngoài thì có vẻ phồn hoa, nhưng thực tế thì nó đã thối nát lắm rồi. Thời ta còn trẻ cũng từng có hoài bão lớn, rằng bản thân phải trừ gian diệt ác, trong mắt không chứa nổi một hạt bụi. Giờ mới hiểu, kiểu người như vậy không làm quan được…” Thúc thúc nói buồn buồn.
Phó Nguyên Đạc chỉ trầm mặc.
Vẻ mặt thúc thúc hắn ảm đạm: “Nếu năm đó ta không cố chấp quá, không cố chấp tới mức không nghe lời của tổ phụ con, tức giận đi ủng hộ phe chủ hòa, thì con cũng không tới mức bị người ta hủy đi tư chất, hạ độc, trở thành như bây giờ.”
Phó Nguyên Tranh hoảng hốt, hắn cứ tưởng rằng tứ ca ốm yếu từ nhỏ, hóa ra là có lý do khác.
Cuối cùng Phó Nguyên Đạc cũng ngẩng đầu lên, ho nhỏ, giọng điệu đều đều: “Phụ thân từng dạy con Tái ông mất ngựa, trong họa có phúc. Sức khỏe con không tốt, không thể thi cử hoặc làm binh, điều này khéo lại là ông trời chiếu cố.”
Đôi mắt người thúc nhòa lệ, lẩm bẩm: “Nhưng lần này…”
Phó Nguyên Đạc ngắt lời: “Nếu có được sự trợ giúp từ phía ngoại nhà công chúa Gia Thuần thì quân vương bình định trung nguyên chỉ là chuyện sớm muộn. Lục đệ mới vào chốn quan trường, nhưng với đầu óc thông minh của đệ ấy thì nhất định biết suy tính lợi hại. Đệ ấy là người lấy đại cuộc làm trọng, con tin tưởng lục đệ.”
Lời của Phó Nguyên Đạc như tảng đá nặng nề đập vào trái tim hắn. Năm đó, phụ thân của hắn là một vị quan liêm khiết. Cả ngày chỉ nghĩ chuyện tận trung vì nước, vì dân chúng. Nhưng lại có một kết cục khốn khổ đến vậy, cuối cùng mệt mỏi mà qua đời sớm. Hắn vẫn còn nhớ, trước khi lâm chung phụ thân nói: “Làm trung thần thì càng phải hiểu âm mưu thủ đoạn, vậy mới có thể vì dân vì nước mà góp chút sức lực.”
Hắn nhắm mắt tựa vào cột hành lang, trong lòng vô cùng khổ sở. Thì ra quyết định của hắn bây giờ không chỉ liên quan tới một người, một nhà nữa rồi. Thế lực nhà ngoại của công chúa Gia Thuần trong triều đình rất mạnh, ấy vậy mà không tỏ rõ thái độ gì với chuyện bắc phạt bình định trung nguyên. Nếu hắn có thể làm phò mã của Gia Thuần, thì phái chủ chiến mà nhà họ Phó ủng hộ sẽ có thêm một phần thắng. Nếu hắn cứ khăng khăng vì lợi ích cá nhân, vì sung sướng nhất thời mà bỏ qua nước nhà thì một người gây họa, cả nhà liên lụy…
Sau cùng, Phó Nguyên Tranh tiếp nhận chuyện tứ hôn rất bình tĩnh, việc đính hôn của hai nhà Phó – Lục cứ vậy mà hủy bỏ. Mà điều châm chọc nhất lại là chuyện của hồi môn của công chúa do nhà họ Lục phụ trách.
Phó Nguyên Tranh không qua nhà họ Lục nữa, nhưng mỗi lần hắn ra vào phủ đều sẽ dừng lại một lát, lẳng lặng nhìn quán trà ở đầu ngõ.
Còn Uyển Ngọc cũng không hề tới tìm Phó Nguyên Tranh, dường như nàng đã biến mất khỏi cuộc sống của hắn.
Trời dần vào thu, ngày kết hôn tới gần. Tin tức liên quan tới nhà họ Lục lại ào ào truyền tới. Nghe nói rằng một ngày nào đó thánh thượng mặc một bộ đồ đỏ, đi qua một tác phẩm sứ trắng, trong khoảnh khắc bỗng thấy nó được nhuộm một màu đỏ tuyệt đẹp, bèn hạ lệnh cho Ngự dao trường (khu luyện gốm) của Tu nội ti phải nung ra được loại có màu đỏ như thế. Nhưng men sứ màu đỏ cực kỳ khó nung thành công. Đến bây giờ, từ người làm công trong lò nung tới quan lớn ở Tu nội ti – Lục Tông Hưng, ai ai cũng lo lắng hoảng sợ.
Hôm nay Phó Nguyên Tranh đang nghỉ ở nhà thì có người làm đưa tới một phong thư, nói là ngoài cổng có vị công tử gửi hắn. Hắn giơ tay ra nhận, chỉ thấy bốn chữ thanh tú bên ngoài: Thư riêng Phó lục (lục là ‘thứ sáu’, không phải Lục của Lục Uyển Ngọc)
Hắn giật mình, vội vàng cho người làm lui, sau đó mở ra đọc:
“Gió thu thanh,
Trăng thu sáng.
Lá rụng lúc tụ lúc tán,
Quạ lạnh đang đậu bỗng rùng mình.
Nhớ nhau không biết ngày nào gặp?
Lúc ấy đêm ấy chan chứa tình.
Vào lòng ta mới thấu nỗi khổ tương tư,
Tương tư nhiều,
Nhớ thương nhiều,
Nếu biết sẽ bận lòng như vậy,
Lúc đầu quen biết làm gì.”
Mỗi một chữ đều như cái đi đâm thẳng vào mắt hắn, rồi xuyên thẳng vào tim. Nhất là mấy chữ cuối cùng, mỗi một nét như thấm đẫm cái lạnh lùng của sự dứt khoát.
Lục phủ – lá cây lao xao. Uyển Ngọc đang ngồi đọc một cuốn sổ cũ bên cửa sổ. Cuốn sổ này nàng nhặt được trong khu lò ngày nọ. Nói ra cũng lạ, hôm đó một người làm công có gương mặt xa lạ vội vã đi đến từ hướng đối diện, còn suýt nữa thì va vào nàng. Cuốn sổ này rơi từ trên người người đó xuống, nhưng hắn đi nhanh quá, sau này nàng mãi chẳng tìm được hắn ta đâu.
Mở ra xem mới biết nó ghi chép lại một số chuyện lạ ít người biết. Một trong số chuyện đó có: Một người con gái hiếu thảo đã giúp người phụ thân làm công nung ra loại đồ gốm nọ, bằng cách lấy thân mình tế lò, người chết nhưng sản phẩm thành công.
Đã mấy ngày nàng không ngủ, cả ngày lẫn đêm đều nhớ về câu chuyện này.
Bây giờ, nàng đang đợi. Nếu chàng chạy đến nói với nàng rằng chàng không cần công chúa, vậy thì dù chân trời góc bể, dù cơm canh đạm bạc, dù phải đeo cái danh bất trung bất hiếu, thì nàng cũng nguyện cùng sinh cùng tử với chàng. Nhưng, nếu đến tối mà chàng vẫn không đến…
“Lục đệ!” Phó Nguyên Đạc đẩy cửa vào, mấy ngày nay bệnh ho của hắn có vẻ đỡ hơn nhiều.
Phó Nguyên Tranh liền giấu thư ra sau lưng.
“Không phải giấu, lúc nàng đưa thư tới ta vừa hay nhìn thấy.” Phó Nguyên Đạc quay lưng với hoàng hôn, vẻ mặt bị sấp bóng, cả người cũng mờ ảo.
Phó Nguyên Tranh khó nhọc nói: “Nếu đệ đổi ý thì tứ ca sẽ cản đệ?”
Phó Nguyên Đạc hừ một tiếng: “Chúng ta đều đã bàn xong xuôi cả rồi, nếu đệ muốn thôi cũng dễ, cứ bước qua xác ta. Đi đi.”
Phó Nguyên Tranh bất thình lình nhào tới, nháy mắt đã đè Phó Nguyên Đạc ngã ra đất. Lưng Phó Nguyên Đạc va đập mạnh với mặt đất, đau tới mức lông mày hắn nhíu lại. Nhưng hắn không hề rên ra tiếng, chỉ lẳng lặng mở mắt nhìn Phó Nguyên Tranh chằm chằm. Rõ ràng Phó Nguyên Tranh là người đánh hắn, nhưng lại run rẩy mạnh, không ngừng hỏi: “Vì sao phải ép đệ? Vì sao? Vì sao…” Một hàng nước mắt rớt xuống trán Phó Nguyên Đạc, xong chúng liền tràn ra hai bên, chỉ còn lại một vệt lành lạnh.
“Lục đệ…” Phó Nguyên Đạc nhắm mắt lại, thở dài: “Ta không ép đệ. Đệ tự quyết định.” Một lúc sau, hắn cảm thấy trên người nhẹ bẫng, Phó Nguyên Tranh đã ngồi bệt ở một bên.
Hắn thở phào một hơi, biết là Phó Nguyên Tranh đã lựa chọn xong.
Tia sáng hoàng hôn cuối cùng biến mất. Lục Uyển Ngọc ngẩng đầu nhìn trời, tuy ở bờ môi hiện lên nụ cười nhẹ, nhưng nước mắt bắt đầu đong đầy trong mắt, trong cái nhìn nhạt nhòa, từng màn từng chuyện vui vẻ khi bên chàng ngày xưa vụt qua trước mặt. Hóa ra những chuyện trước đây đều là giả tạo.
Ngày phải giao đồ càng ngày càng tới gần nhưng lò nung vẫn không nung ra nổi tác phẩm sứ màu đỏ.
Nếu bị quá hạn thì sẽ phạm tội khi quân.
Sáng sớm, mặt trời mới nhú thì Lục Uyển Ngọc đã đến xưởng. Nàng tự tay làm một chiếc bình tịnh thủy. Hình dạng giống cái bình tịnh thủy trong miếu, nhưng có chút khác, đó là nó có cổ mảnh, càng về dưới càng to ra, giống phần bụng của bình Hạnh Viên, bên hông có một cái vòi đầu phượng. Ở phần bụng, nàng vẽ lên những phiến đá nhỏ và vài cành lá, còn ghép cả một bài thơ, “Gió thu”?
(Hình chiếc bình, như đã đưa ở chương trước: