Anh Linh Thần Võ Tộc Việt

Chương 23: Lấy chết chuộc tội



Đạo quân Quảng-vũ nghe lệnh chúa tướng cùng dương cung bắn lên mặt thành. Khai-Quốc vương quơ tay một cái, vương đã bắt được năm mũi tên. Vương vận sức phóng về phía Nguyên-Hạnh. Kình lực mũi tên xé gió bay tới. Nguyên-Hạnh rút kiếm gạt. Nhưng y gạt hụt, vì cả năm mũi tên đến trước ngựa y khoảng một trượng thì rơi xuống. Vương nói lớn:

– Tứ đệ! Hồ quân hầu! Nguyễn đô thống! Ta lấy đức từ bi hỷ xả trị người. Ta hẹn cho các người phải giải tán, quân đâu về đó. Ta sẽ tâu phụ-hoàng ân xá cho các người. Bằng các người còn u mê, thì các người phải lĩnh quả của chính nhân người gieo.

Vương nói với Lý Nhân-Nghĩa:

– Hổ uy đại tướng quân. Bằng như Vũ-Đức vương không kể đến phụ hoàng đến ta, thì vương trở thành con người bất hiếu, bất nghĩa. Tướng quân cứ thẳng tay.

Vương cùng Thiệu-Thái, Vi Chấn đến cửa Đan-phượng. Lý Huyền-Sư cung kính hành lễ:

– Khải vương gia, trong ba đám quân phản loạn, thì đám này hung hăng hơn cả. Chúng có đạo Quảng-thánh, chỉ huy bởi Đàm An-Hoà. Y ra mặt phản loạn, nói nhiều lời vô đạo. Ngoài ra còn có đoàn thiết kị Hồng-thiết giáo hơn nghìn người, đội thiếu niên Hồng-hương hơn nghìn người nữa. Chính Dực-Thánh vương chỉ huy công thành, nhưng từ sáng tới giờ, không thấy vương đâu cả.

Khai-Quốc vương leo lên mặt thành. Vương đưa mắt quan sát, thấy ba đạo quân phản loạn đang nghỉ ngơi ăn uống. Chúng không thấy vương xuất hiện. Lý Huyền-Sư sai đốt pháo lệnh, rồi tung lên trời. Đám quân phản loạn đang ăn cơm, đưa mắt nhìn lên. Khai-Quốc vương vận nội lực gọi:

– Ta muốn nói truyện với Dực-Thánh vương.

Đàm An-Hòa cùng Lý Hưng-Long, Đặng Trường, Hoàng Văn đang ăn với nhau. An-Hòa thấy Khai-Quốc vương xuất hiện thì phát run. Y vội lên ngựa đến trước cổng thành. Còn bọn Đặng Trường thấy vương thì hơi khựng lại, chúng đưa mắt nhìn nhau như cùng báo hiệu cho nhau biết cuộc nổi loạn e khó thành công.

Khai-Quốc vương hỏi An-Hòa:

– Hữu-kiêu-vệ đại tướng quân. Ta muốn nói truyện với Dực-Thánh vương, hoặc Đàm quốc-cữu.

Đàm An-Hòa tuy phát run, nhưng đã trót lâm thế cỡi cọp, y cầm roi chỉ lên mặt thành:

– Tên Lý Long-Bồ kia, Dực-Thánh vương được hoàng-thượng ban chiếu nhường ngôi cho người. Nhưng Phật-Mã đem quân phong toả cung Long-thụy, nên phụ thân ta phải tôn chiếu phò Dực-Thánh vương lên ngôi. Mi mau mau mở cửa thành cho chúng ta vào tru diệt Phật-Mã, thì cái tước vương của mi có cơ bảo toàn. Bằng không thì họa sát thân khó thoát.

Huệ-Sinh ghé tai Lê Văn nói nhỏ mấy câu. Chàng cung kính gật đầu:

– Đại sư yên tâm. Tuy cháu là thầy thuốc, nhưng khi cần giữ nước, thì thầy thuốc cũng phải mạnh tay.

Nguyên từ trước đến giờ Lê Văn đã nghe Tự-Mai nói nhiều về tên khả ố Đàm An-Hòa. Có lần Tự-Mai dặn chàng:

– An-Hòa là một tên cực kỳ khả ố. Nó ỷ là em trai Đàm quý phi, mà quý phi đang được Hoàng-thượng sủng ái, nên hành sự vô thiên, vô pháp, không ai dám động vào nó. Trong Thuận-Thiên thập hùng thì anh cả, chị Thanh-Mai, chị Mỹ-Linh, đều là con cháu của Hoàng-thượng. Anh Tạ Sơn, Tôn Đản người thì làm quan, kẻ thì con quan càng phải kiêng nể y. Chỉ duy Văn đệ không vướng mắc gì cả. Nếu có dịp, Văn đệ nên trừ phắt nó đi cho rồi.

Lê Văn ghi tâm điều đó. Hôm nay trước trận tiền, An-Hòa nhục mạ Khai-Quốc vương quá đáng, khiến chàng không chịu được nữa. Từ trên mặt thành, chàng tung mình nhảy xuống ngay đầu An-Hòa. An-Hòa coi thường Lê Văn, y rút kiếm chĩa lên không, định chờ cho chàng rơi xuống mũi kiếm của y. Lê Văn vốn cực kỳ thông minh, chàng biết cạnh An-Hòa còn có mấy ma đầu Hồng-thiết giáo. Nên chàng làm như bị rơi trúng kiếm của An-Hòa. Đợi cho lưng sắp chạm vào kiếm y, chàng mới phóng một Lĩnh-Nam chỉ. Choang một tiếng, kiếm bị gẫy, mà người chàng đã ngồi lên sau lưng y, tay trái kẹp cổ y, chân thúc vào bụng ngựa. Con ngựa lao tới chân thành.

Trên thành, Huệ-Sinh tung xuống sợi dây, Lê Văn chụp dây giật mạnh, người chàng với An-Hòa bay bổng lên mặt thành. Diễn biến xẩy ra mau quá, dù bản lĩnh Đặng Trường, Hoàng Văn vô cùng cao siêu, mà muốn cứu không kịp. Lê Văn túm cổ áo tên An-Hòa dơ cao lên, rồi vận nội lực nói lớn:

– Chư quân đạo Quảng-thánh nghe đây. Tên An-Hòa đánh lừa chư quân, thì chỉ mình y bị tội thôi. Còn chư quân đều được ân xá. Vậy chư quân hãy bao vây bọn Hồng-thiết giáo với đội Hồng-hương thiếu niên để lập công. Nào! Tiến lên.

Hoàng Văn, Đặng Trường kinh hãi, vội đứng trấn trước đội thiết kị Hồng-thiết giáo và Hồng-hương thiếu niên nói lớn:

– Chư quân không được nghe lời tên ôn con Lê Văn. Nó vốn thuộc giòng giống vua Lê, chống lại Thiên-tử. Chư quân thấy chủ tướng lâm nguy, phải lăn mình vào cứu chứ? Nay Hữu Kiêu-vệ đại tướng quân Đàm An-Hòa bị nó bắt sống, chư quân cùng chúng ta công thành, cứu chúa tướng. Nào tiến lên.

Đám binh tướng ngơ ngác tiến thoái lưỡng nan, không biết nên nghe lời Lê Văn hay nghe lời đám trưởng lão. Lê Văn hiểu tâm lý đám Thiên-tử binh: Họ chẳng vạ gì mà nghe lời mấy tên ma đầu, nhưng quân luật triều Lý định rằng: Khi đồng đội bị địch bắt, mà mình không cứu thì bị xử tử. Chàng đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương, thấy vương im lặng, chàng hiểu liền: Mình có giết tên này, vương cũng không buồn.

Chàng túm tóc tên Đàm An-Hòa đưa ra cho chư quân nhìn rồi nói:

– Nuôi quân ba năm, dùng chỉ một giờ. Chư quân là Thiên-tử binh mà đi nghe lời bọn ma đầu ư? Nếu chư quân không muốn giao chiến với đám Hồng-hương thiếu niên và thiết kị Hồng-thiết giáo thì có khác gì phiến loạn, sẽ bị xử tử. Chư quân coi đây.

Tay phải rút kiếm, tay trái tung Đàm An-Hòa lên cao. Ánh thép lóe sáng, người An-Hòa bị chẻ dọc, cắt ngang thành bốn mảnh rơi xuống dưới thành.

Chàng cởi cái bọc trên lưng đưa ra, rồi hướng vào đội thiết kị Hồng-thiết giáo, đội Hồng-hương thiếu niên vói lớn:

– Chư vị giáo chúng Lạc-long giáo. Trước đây các người theo Hồng-thiết giáo, đã được ân xá. Nay chắc trong khi giáo chủ vắng nhà, các người bị bọn ma đầu kiềm chế phải không? Các người hãy buông vũ khí đầu hàng, các người sẽ được giáo chủ Thân Thiệu-Thái trị dứt độc tố cả đời cho.

Chàng ngừng lại một lúc, rồi tiếp:

– Trong khi các người theo bọn Hoàng Văn, Đặng Trường làm loạn, thì quân của Bắc-biên, của các trấn kéo về âm thầm bao vây. Ngày một ngày hai những ai theo Hồng-thiết giáo sẽ bị giết sạch. Các người hãy nhìn đầu tên Phạm Trạch và mụ Ngô Bách-Vân đây.

Chàng cởi bọc, túm tóc thủ cấp Phạm Trạch, Ngô Bách-Vân đưa ra cho mọi người coi, rồi chàng liệng xuống chân thành.

Thình lình đám đệ tử Hồng-hương hô tiếng lớn, rồi một cây cờ Lạc-long giáo được phất lên, và cây cờ Hồng-thiết giáo bị hạ xuống. Người cầm đầu nói lớn:

– Chúng tôi là con dân của Đại-Việt, nguyện trung thành với Hoàng-thượng.

Lê Văn liếc nhìn, chàng chợt nhận ra người cầm đầu đám thiếu niên này là Phan Thi, với Trần Minh. Hồi trước hai người này cùng đồng đội bị Cao Thạch-Phụng, Nguyên-Hạnh định giết chết ở trên đỉnh Dục-thúy, được Thanh-Mai, Bảo-Hòa cứu thoát. Bảo-Hòa dặn họ tiềm ẩn trong Hồng-hương mật cốc, làm tai mắt cho triều đình. Bây giờ, chắc Tạ Sơn mật lệnh cho họ trước, cho nên họ mới hiển lộ thân thế ra.

Khai-Quốc vương đưa mắt cho Lý Huyền-Sư. Huyền-Sư lấy ba cây pháo lệnh châm ngòi rồi tung lên không từng cây một. Mỗi cây phát ra tiếng nổ lớn, hóa thành hình một bông sen mầu tím sáng rực trên trời. Khi ba cây pháo bông hình sen vừa tắt, thì lập tức trên không phận cửa Phi-long, Tường-phù cũng có ba cây pháo thăng thiên nổ tung, tỏa ra hình con chim ưng xoè cánh. Lê Văn reo:

– Đô đốc Vũ Minh bắt đầu tấn công đạo quân của Vũ-Đức vương. Chắc chắn cửa thành mở để Lý Nhân-Nghĩa, Lê Thuận-Tông đánh thẳng ra. Đạo thủy quân của hạm đội Bạch-đằng đánh từ Bắc xuống.

Tiếp theo trên không phận cửa Quảng-phúc lại nổ tung ba cây pháo bông nữa, Thiệu-Thái nhận ra đó là tín hiệu của Khu-mật viện. Chàng la lên:

– Nùng đạo trưởng cho mở cửa Quảng-phúc để đạo quân anh Tạ Sơn với Quách Thịnh đánh bọc hông Vũ-Đức vương, Dực-Thánh vương.

Đứng trên mặt thành, Khai-Quốc vương nhìn rất rõ đạo thủy quân của Phạm Tuy đang từ cửa Bắc tiến tới. Đạo quân của Tạ Sơn đang từ cửa Nam đi lên, trống thúc nhịp nhàng. Đặng Trường vốn kinh nghiệm hành quân. Y vẫy tay cho đội thiết kị Hồng-thiết giáo lui lại, chia làm hai. Đội giáo chúng chống với đội thủy quân. Đội thiết kị chống với đội của Tạ Sơn.

Một người từ điện Long-thụy phi ngựa tới, chính là Khai-Thiên vương. Vương lên mặt thành, đứng cạnh Khai-Quốc vương. Vương nói nhỏ:

– Chú hai! Khi chú rời cung Long-thụy thì thân mẫu Mỹ-Linh cũng đi ra ngoài. Ta tìm khắp cả mà không thấy.

– Từ hôm chị từ Trung-nguyên về, tình hình ra sao?

– Ta đã tâu trình lên phụ hoàng, phế bỏ xuống làm thị tỳ. Tuy vậy, vì là mẹ của bốn đứa con, ta không nỡ đuổi khỏi cung. Từ đấy suốt ngày thị không nói, không rằng. Đêm thì âm thầm luyện kiếm, đôi khi đóng cửa phòng khóc lóc một mình.

Cuộc đối thoại phải ngưng lại vì trống trận hai bên thúc vang lừng.

Thình lình cửa thành mở rộng, đạo Ngự-long hữu do Lê Văn, Lý Huyền-Sư chỉ huy hùng hổ tiến ra hợp với đội Hồng-hương thiếu niên. Thế là đám quân Hồng-thiết giáo bị bao vây ba mặt. Nhưng khi các đạo quân triều tới trước đám giáo chúng khoảng mười trượng thì ngừng lại reo hò.

Đặng Trường nói với Hoàng Văn:

– Tên Lý Long-Bồ rất nhiều mưu mẹo. Dường như y muốn uy hiếp tinh thần chúng ta, để tránh đổ máu. Tứ đệ giỏi binh bị. Vậy ta với giáo chúng rút về phía Thiên-trường trước. Tứ đệ với đội thiết kị cản hậu.

Đám giáo chúng chuyển động, tiền đội đổi làm hậu đội rồi từ từ lui quân. Trong khi đội thiết kị dàn ra đoạn hậu.

Đô đốc Phạm Tuy cầm cờ phất một cái, lập tức Tôn Đản, Cẩm-Thi hô quân xung vào trước đội thiết kị Hồng-thiết. Hoàng Văn cầm chắc thanh đao chuẩn bị tác chiến. Nhưng Tôn Đản ra lệnh cho quân dừng lại. Chàng cười ha hả:

– Hoàng quân hầu. Người chẳng là thần tử nhà Tống ư? Người chẳng từng được phong làm Cổ-loa hầu ư? Trong đại hội Lộc-hà, Thân giáo chủ chẳng trị bệnh cho người đó ư? Thuận-Thiên hoàng đế chẳng từng ân xá tội cho người ư? Tại sao người lại theo Dực-Thánh vương làm loạn. Người hãy buông đao đầu hàng. Ta quyết Khai-Quốc vương sẽ ân xá cho người.

Hoàng Văn còn đang tần ngần suy nghĩ, thì một kị mã, thân thể nhỏ bé, mặt bịt kín; từ trong đội Ngự-long phi ra như ánh chớp. Viên kị mã rút kiếm đâm Hoàng Văn, thế kiếm cực kỳ hiểm độc. Hoàng Văn giật cương cho ngựa lui lại, thì kỵ mã bịt mặt lại tung người nhảy lên cao, kiếm tà tà đâm vào cổ Hoàng Văn. Hoàng Văn nhận ra đó là Mê-linh kiếm pháp, y cười nhạt, vung đao lên gạt kiếm. Nhưng kiếm đã đổi chiều hướng vào trán y. Kinh hoàng y cúi rạp người xuống tránh, thì kiếm lại đổi chiều chúc vào đỉnh đầu y.

Không hổ là đại ma đầu, kinh nghiệm chiến đầu có thừa, Hoàng Văn cúi rạp người xuống, rồi thúc chân vào bụng ngựa; thân hình y trườn qua dưới háng viên kị mã. Đối với bất cứ người trong võ lâm nào ở vào hoàn cảnh Hoàng Văn, thì thà chịu chết, chứ không ai chịu nhục xử dụng lối thoát thân vô lại, chui qua háng đối thủ. Nhưng những đệ tử Hồng-thiết giáo đều là bọn mặt dầy, vô liêm sỉ, bởi vậy Hoàng Văn thản nhiên như không.

Viên kị mã giết hụt Hoàng Văn, tà tà đáp xuống đất. Chân vừa chạm đất, người đó quay lại rất nhanh, tung người lên xỉa kiếm vào hông y. Hoàng Văn vì khinh thường đối thủ, hút chết, chưa hết kinh hoàng, thì kiếm đã tới ngực. Y vội vọt người lên cao, đao khoa dưới chân đề phòng đối thủ dùng kiếm đánh ngược lên. Nhưng người kị mã lại đổi chiều kiếm, ánh thép loáng một cái, đầu ngựa của Hoàng Văn rơi khỏi cổ. Thân ngựa còn dư lực lộn lên khỏi mặt đất rồi ngã xuống.

Quân, tướng hai bên đều kinh hoàng nhìn trận đấu. Người ra chiêu đã thần tốc, mà kẻ ứng phó cũng tuyệt diệu. Hoàng Văn rơi xuống đất, y ôm đao hất hàm hỏi kị mã:

– Mi là ai? Ta không muốn đối chiêu với kẻ vô danh.

Đứng lược trận trên thành Huệ-Sinh nói với Khai-Quốc vương:

– Vương gia xem, Mê-linh kiếm pháp thực ảo diệu vô cùng. Nếu sư phụ hoặc vương gia là Hoàng Văn thì cũng chỉ có cách đó mới thoát chết. Nhưng kị mã là ai? Trông lưng quen quá. Không lẽ là công chúa Bình-Dương?

Khai-Quốc vương lắc đầu:

– Bình-Dương cao hơn người này một chút. Dường như người này là đàn bà, vì thức lượn trên không bà ta uốn cong lưng coi thực đẹp mắt.

Bên phía đạo quân Tạ Sơn, quận chúa Trường-Ninh ngồi trên bành voi với Hà Thiện-Lãm. Nàng chỉ cho Lãm những chiêu kiếm của kị mã:

– Người này dùng kiếm pháp Mê-linh ảo diệu hơn bọn em nhiều, có lẽ không thua chị Mỹ-Linh làm bao. Dường như y là đàn bà thì phải.

Hồng-Phúc ngồi trên bành voi với Lưu-Tường. Vốn ỷ có mẹ che chở, đành hanh, ganh tỵ đã quen, nghe chị nói, nàng hứ một tiếng rồi bắt bẻ:

– Không biết học được mấy cái múa, mà cũng ra vẻ ta đây giỏi kiếm pháp. Hơi một tý thì đem cô chị Mỹ-Linh ra dọa thiên hạ, làm như chỉ có Mỹ-Linh là giỏi nhất thế gian.

Trường-Ninh khuyên em:

– Em ơi, chúng mình đang đối đầu với quân giặc. Em muốn gây sự thì gây với giặc, chứ có đâu gây với chị hoài.

– Người chờ đi.

Người kị mã bịt mặt lại quay tròn kiếm đánh liền mấy chiêu, Hoàng Văn vừa hò hét, vừa nhảy nhót tránh né. Người ngoài không còn phân biệt được đao hay kiếm; không rõ kị mã hay Hoàng Văn nữa. Thình lình một ánh thép bay lên cao rồi rơi xuống. Hoàng Văn nhảy lui lại, máu trên cổ tay y chảy xuống xối xả. Kị mã chĩa kiếm vào ngực y quát lớn:

– Quỳ xuống!

Hoàng Văn cười ha hả:

– Con bà mi! Thì ra mi là đàn bà. Ta giận vì học nghệ không tinh. Ta thà chết chứ không quỳ gối.

Kị mã cười lanh lảnh:

– Cái đó thì không khó.

Kị mã áo đen chỉ nói mấy câu, mà Khai-Thiên vương, Trường-Ninh đều rúng động tâm thần. Vì cả hai nhận ra bà chính là vương phi Liên-Phương. Vương vội xuống dưới thành quan sát trận đấu.

Thình lình Hoàng Văn, đưa người về phía trước, mũi kiếm đâm vào giữ ngực y, bình một tiếng, làn nước đen từ giữa ngực Hoàng-Văn tung vào Liên-Phương. Kinh hoàng bà nhảy lùi lại liền ba bước, nhưng mặt, ngực bà đã bị nước đen bắn vào. Hoàng-Văn cũng nhảy lùi liền ba bước, rồi co giò chạy. Nhưng y vừa chạy mấy bước thì một người rơi ngay trước mặt y. Không tránh kịp, hai người đụng vào nhau đến huỵch một tiếng, cả hai bật lui trở lại.

Mọi người nhìn lại, thì ra người đụng nhau với Hoàng Văn là Tôn Đản. Nguyên Tôn Đản đứng lược trận, chàng thấy kiếm pháp người bịt mặt dường như không thua Mỹ-Linh làm bao, nhưng chàng để ý thấy ngực, bụng Hoàng-Văn sao tự nhiên lớn khác thường. Nếu bảo rằng y béo ra, thì phải béo đồng đều, chứ có đâu mặt, chân tay gầy hơn hồi đại hội Lộc-hà, mà bụng lại lớn. Chàng nhớ lại trận Tản-lĩnh, tên Cút-Độp đã dấu trong ngực một bọng da chứa chất độc, khiến Tây-Sơn lão nhân hút mất mạng… Vì vậy chàng quan sát trận đấu, nhưng chuẩn bị sẵn.

Quả nhiên đúng như chàng ước tính, Khai-Thiên vương phi bị mắc bẫy Hoàng Văn. Y đang chạy, thì chàng tung người theo cản đường. Hoàng Văn đã nhận ra chàng. Y cười nhạt:

– Mi không muốn sống nữa ư?

Tôn Đản chưa kịp trả lời, thì tiếng vương phi Khai-Thiên vương đã gào thét kinh khủng. Bà ôm mặt nhảy lên, rồi hét lanh lảnh, chứng tỏ đau đớn cùng cực. Trường-Ninh vội bồng bà vào thành, miệng gọi Thiệu-Thái:

– Anh mau cứu vương mẫu với. Vương mẫu bị trúng độc.

Thiệu-Thái tung mình đến đỡ lấy mợ, rồi cùng Trường-Ninh đem bà vào cung Uy-viễn gần đấy.

Ngoài này Tôn Đản với Hoàng Văn đã đấu được đến chiêu thứ năm mươi. Bàn về công lực, thì Tôn Đản hút nội lực của hai đại cao thủ phái Hoa-Sơn trên Tản-lĩnh. Trong trận Biện-kinh, chàng lại thu được công lực của các đối thủ Tống. Cho nên hiện công lực chàng cao hơn Hoàng Văn gấp bội. Nhưng chàng chưa thắng được y bởi, một là y rất bác học, khi thì y dùng võ công Tiêu-sơn, khi thì y dùng võ công Đông-a, lại có lúc y dùng võ công Mê-linh. Hai là chàng úy kị độc chưởng của y, nên chàng cứ phải dùng võ công Đông-a mà Tự-Mai dạy chàng, trong khi gốc võ công, nội công của chàng là Mê-linh. Nên chàng không phát xuất hết tinh lực ra nổi.

Đấu được hơn năm mươi chiêu nữa, thì công lực của chàng phát ra tối đa. Hoàng Văn bắt đầu núng thế. Thình lình y đánh ra một chiêu, Tôn Đản cảm thấy trong chưởng có hơi lạnh. Ngô Cẩm-Thi đứng lược trận, bật lên tiếng la:

– Cẩn thận! Võ công Liêu-Đông.

Tiếng la của Cẩm-Thi đưa Tôn Đản trở về thực tại. Ngày nọ Mỹ-Linh đấu với Hoàng Văn tại phủ Khai-Thiên. Khi Mỹ-Linh đánh như vũ bão, khiến Hoàng Văn không thể dùng võ công tạp nhạp học lóm mà phải xử dụng võ công Liêu-Đông của y. Huệ-Sinh đã phân giải cho chàng biết rằng võ công Liêu-Đông là võ công Trung-nguyên, nên chàng nhắc Mỹ-Linh dùng võ công Cửu-chân mới thắng y. Còn khi y dùng võ công mới đây của Trung-nguyên, thì tính chất khắc chế không còn nữa.

Bây giờ thấy Hoàng Văn dùng võ công Liêu-Đông, chàng nghĩ thầm: Chính mi tự tìm lấy cái chết của mi, thì đừng trách ta. Thình lình chàng xuất chiêu Kình nhập biển Đông, bình một tiếng, hai chưởng chạm nhau. Hoàng Văn bật lui liền ba bước, Tôn Đản di chuyển theo phát chiêu Hải-triều lãng lãng lớp thứ nhất. Bình tiếng nữa, Hoàng-Văn lại lui liền hai bước. Nhưng Tôn Đản không để cho y kịp thở chàng phát lớp thứ nhì. Lớp này mạnh gấp hai lớp đầu. Bình, Hoàng Văn lảo lảo muốn không vững. Tôn Đản hít một hơi, chàng phát lớp thứ ba, mạnh gấp bốn lần lớp thứ nhất. Chàng nói lớn:

– Xin Khai-Thiên vương, vương phi hãy xem tên ma đầu đền tội. Bình một tiếng, người Hoàng Văn bay bổng lên cao. Tôn Đản hướng lên trời phát lớp thứ tư. Ầm một tiếng, người Hoàng Văn vỡ nát ra, thịt, xương, ruột, gan bay tung khắp nơi.

Chàng ngừng lại, một kị binh thuộc đội thị-vệ đã nhảy xuống ngựa cắt đầu Hoàng Văn, rồi cung cung, kính kính dâng lên cho Khai-Quốc vương. Khai-Quốc vương truyền:

– Hoàng Văn trước đây là gia tướng của Khai-Thiên vương, phạm tội với vương không ít. Người hãy dâng thủ cấp y cho vương.

Tôn Đản quay lại tìm đội Thiết-kị Hồng-thiết giáo, thì không thấy một bóng người nào nữa. Chàng đưa mắt hỏi Tạ Sơn.

Tạ Sơn ghé miệng vào tai Tôn Đản nỏi nhỏ:

– Đám thiết kị này là người trung thành với Lạc-long giáo. Họ giả theo bọn Hồng-thiết giáo, rồi khi lâm trận sẽ trở giáo đánh chúng. Hồi nãy ta ra mật lệnh bằng ký hiệu bảo họ hãy rút theo Đặng Trường. Cho nên khi họ rút, quân mình không đuổi theo là thế.

Khai-Quốc vương ra lệnh:

– Tạ sư đệ hãy trở về giữ Khu-mật viện. Tôn Đản thay anh Tạ Sơn tổng chỉ huy Thuận-Tông với đạo binh Phong-châu, Phan Thi với đội Hồng-hương thiếu niên đuổi theo bọn giáo chúng Hồng-thiết giáo khẩn cấp. Ta tăng viện cho sư đệ Trấn-uy đại tướng quân Lê Phụng-Hiểu.

Vương ghé tai Tôn Đản dặn nhỏ mấy câu. Tôn Đản gật đầu, chàng cùng Ngô Cẩm-Thi leo lên một bành voi, hô quân đuổi giặc.

Vừa lúc đó, có ngựa lưu tinh đến báo:

– Khải vương gia, tại cửa Phi-long, Tường-phù, đô đốc Vũ Minh bao vây kín đạo quân phản loạn, rồi kêu gọi đầu hàng. Vũ-Đức vương muốn nói truyện với vương gia trước khi đầu hàng, chứ không muốn nói truyện với các tướng. Vương còn nói: Nếu vương gia không tới, thì quyết chiến đấu đến người cuối cùng, đừng hy vọng đầu hàng hay rút lui.

Khai-Quốc vương cùng Lê Văn, Tạ-thuần-Khanh lên ngựa hướng cửa Đông. Vương tới nơi, chư quân dãn vòng vây ra cho vương vào. Bên trong vòng vây, ba đạo quân phản loạn Quảng-vũ, Hồng-thiết, Hồng-hương dàn trận theo thế quay lưng vào nhau sẵn sàng sống chết. Vương gò ngựa hỏi lớn:

– Vũ-Đức vương đâu?

Vũ-Đức vương cùng Nguyên-Hạnh, Lê Tấn, Vũ Hào, Linh Vũ-Nguyên, Thạch Nan-Biện, Nguyễn Khánh tiến ra. Vũ-Đức vương hỏi Khai-Quốc vương:

– Nhị ca! Nhị ca hãy nói thực đi, hiện thời phụ hoàng ra sao? Dực-Thánh vương xuất ra đạo chỉ dụ thủ bút của phụ hoàng, gọi người vào để nhận di chiếu, thay quyền nhị ca trong khi nhị ca vắng nhà. Thế rồi đại ca đem quân phong toả cung thất, không cho em thăm phụ hoàng. Rồi người nói rằng đại ca hợp với vợ chồng Thân Thừa-Quý ám hại nhị ca. Trong lúc phẫn chí, em phải nhờ các trưởng lão Lạc-long giáo trở giúp, đem quân hỏi tội Phật-Mã. Bây giờ thình lình nhị ca xuất hiện, đem đại quân vây em. Em không hiểu gì cả.

Những lời nói của Vũ-Đức vương khiến Khai-Quốc vương nhớ lại một truyện: Hôm Tự-Mai vào hoàng-cung Tống trộm toàn bộ thư tịch về khoa Tử-vi trao cho vương. Vương cùng Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Cẩm-Thi xúm vào nghiên cứu. Chỉ hơn mười ngày, bốn người đã có căn bản về khoa này. Mỹ-Linh, Cẩm-Thi chấm số của Thuận-Thiên hoàng đế, cùng chư vương, đại thần. Vương chú ý đặc biệt đến lá số của Vũ-Đức vương. Hôm đó Thanh-Mai, Mỹ-Linh đều giải đoán rằng:

Phá-quân thủ mệnh tại Dần, ngộ Văn-xương, Thái-tuế. Trong Tử-vi kinh nói :Phá-quân nhất diệu tính nan minh, nghĩa là mệnh chỉ có Phá-quân thủ thì tính tình không minh mẫn, nhẹ dạ, dễ tin người. Hơn nữa Phá-quân ngộ Thái-tuế thì thuộc loại coi người thân như cừu thù, coi kẻ ác như chân tay. Năm nay đại tiểu hạn ngô Kiếp, Hình, Kị e bị chết thảm dưới đao thương.

Bây giờ thấy em đứng cạnh sáu đại ma đầu Hồng-thiết giáo, vương suy nghĩ:

– Mình hãy cố cứu ông em này xem sao.

Vương nói nhỏ nhẹ:

– Chú tư ơi! Chú có tin anh không? Chú có nghĩ rằng anh em chúng ta như cây liền cành không? Làm gì có truyện Khai-Thiên vương cướp ngôi? Làm gì có truyện ta bị giết chết? Tin anh đi. Chú hãy cho rút quân. Ta hứa tha hết tội lỗi cho chú, cho chư quân.

Vũ-Đức vương chỉ đám ma đầu Hồng-thiết giáo:

– Nhị ca có hứa ân xá cho mấy người chân tay của em không?

Khai-Quốc vương nghĩ rất nhanh:

– Thì ra ông em đặt vấn đề với mình chỉ với mục đích ân xá cho bọn sát nhân kinh tởm này. Trước đây phụ hoàng cùng võ lâm đã tha cho chúng một lần, rồi bây giờ chúng lại mưu phản, ta không thể tha cho chúng một lần nữa. Nhưng nếu ta không tha cho chúng, thì e có cuộc đổ máu mà số người chết đến hàng nghìn. Nhược bằng ta hứa, rồi tìm cách giết chúng sau thì mất tín với thiên hạ. Được ta có cách, ta hòa hoãn để cho quân của chúng lo sợ, rồi không đánh cũng tan.

Vương khoan thai nói:

– Việc ân xá cho chư quân thuộc thẩm quyền của anh, vì anh là Phụ-quốc thái-úy. Còn ân xá cho những người của Hồng-thiết giáo chỉ phụ-hoàng mới có quyền. Sau khi phụ-hoàng ân xá, họ còn phải được Lạc-long giáo tha cho nữa. Theo anh nghĩ thì họ có tội hay không thì sẽ do hội đồng giáo vụ xử họ. Anh không có quyền tha cho họ.

Vương vận nội lực hướng chư quân nói lớn:

– Chư quân tướng nghe đây! Các người có phải là Thiên-tử binh không? Có phải phụ-hoàng ta hằng tín nhiệm chư quân chăng? Có phải cơm chư quân ăn, áo chư quân mặc, nhà chư quân ở, vợ con chư quân cũng được ấm no vinh hạnh không? Tất cả những thứ đó có phải là ân điển của Thiên-tử không? Thiên-tử ưu đãi chư quân như thế, thì chư quân có phải là con Thiên-tử không?

Chư quân tướng đồng dạ một tiếng lớn. Vương tiếp:

– Chư quân đã là con của Thiên-tử. Ta là Phụ-quốc thái-úy, thống lĩnh chư quân bấy lâu nay. Như vậy chư quân có phải là em ta không? Còn chư tướng. Ta hỏi chư tướng câu này nhé: Chư tướng đều do ta cất nhắc, dạy dỗ mà lên. Bấy lâu nay ta đối với chư tướng có gì bất công chăng?

Chư tướng đồng hô lớn : không.

– Như vậy chư tướng, chư quân đều là em ta. Hồi nãy ta đứng trên mặt thành, chư quân tướng không tin ta là Khai-Quốc vương phụ quốc thái úy, nên đã dùng tên bắn ta. Song ta biết chư quân tướng lầm lẫn, nên ta không chấp. Ta từ Trung-nguyên trở về, đã đem quân Bắc-biên cùng các trấn, giải tỏa cửa Diệu-đức, Đan-phượng, Đại-hưng, Quảng-đức mà không đổ máu. Ta lại cho Hạm-đội Động-đình chiếm Thanh-hóa, đánh phía sau đạo phản loạn của Đàm Toái-Trạng. Hiện chỉ còn có cửa Phi-long, Tường-phù này mà thôi. Đô đốc Vũ Minh tổng chỉ huy quân giải tỏa cử Phi-long, Tường-phù. Chư quân tướng bị vây vào giữa. Chư quân thấy không, thủy quân Hạm-đội Âu-Cơ vây phía Bắc. Phía Nam thì Vũ-kị đại tướng quân Quách Thịnh chỉ huy hai đạo Bổng-nhật đánh lên. Phía trong thành thì Hổ-uy đại tướng quân thống lĩnh Cấm-quân cùng đạo binh Phong-châu từ trong đổ ra.

Vương thấy quân tướng im lặng, biết có hiệu quả, vương tiếp:

– Về gia quyến chư quân, tướng, ta đã cho Thị-vệ tới canh phòng cẩn thận, quyết không cho ai xâm phạm tới. Vậy chư quân, tướng còn đợi gì mà không rời nơi đây, đem vũ khí về đầu hàng. Ta Khai-Quốc vương, Phụ-quốc thái-úy thề sẽ ân xá mọi tội trạng cho chư quân tướng. Vậy ta nới vòng vây trong một ngày cho chư quân tướng suy nghĩ rồi hành động.

Thấy Vũ-Đức vương còn ngần ngừ, Khai-Quốc vương tiếp:

– Chú không tin anh ư? Vậy anh nới vòng vây, dành cho chú một ngày để suy nghĩ.

Vương nói với đô đốc Vũ Minh:

– Vũ đô đốc, xin đô đốc nới vòng vây trong vòng một ngày để Vũ-Đức vương cùng chư quân nghỉ ngơi, trong khi ta thỉnh mệnh ở Hoàng-thượng.

Khai-Thiên vương trở về điện Càn-nguyên. Vương gọi đô đốc Vũ Minh lại bên cạnh nói:

– Sư đệ thu quân, không vây Vũ-Đức vương nữa. Nếu như vương hối lỗi, ắt sẽ lệnh cho Nguyễn Khánh lui quân rồi vào thành gặp ta. Bằng vương còn tham quyền cố vị, ắt sẽ cùng chúng rút khỏi kinh thành về Trường-yên hội với Nhật-Hồ lão nhân. Tại cửa Đan-phượng, Đại-hưng, ta đã làm tương tự, tàn quân Hồng-thiết giáo do Đặng Trường chỉ huy đã rút về Thiên-trường. Ta muốn chúng tập trung tại Trường-yên rồi đánh một trận, diệt hết. Chứ đánh tại Thăng-long này, chúng sẽ tản vào dân chúng, khó mà quét sạch.

Khai-Quốc vương trở vào cung Long-thụy thăm bệnh tình Thuận-Thiên hoàng đế. Hoàng-đế thấy vương vào, mặt rồng tươi tỉnh hỏi:

– Ta biết con dẹp loạn xong rồi. Tình hình ra sao?

Vương thuật chi tiết các trận đánh. Hoàng-đế hỏi:

– Thế Dực-Thánh vương, Vũ-Uy vương, Đông-Chinh vương hiện ở đâu?

– Dực-Thánh vương rút theo Đặng Trường về Trường-yên. Vũ-Uy vương bị Đàm Toái-Trạng giam ở Thanh-hóa, đã được đệ tử phái Đông-a cứu thoát. Hoàng nhi tạm cử vương trấn Thanh-hóa thay Đàm Toái-Trạng. Đông-Chinh vương đang cùng Phạm Trạch, Lê Tấn vây cửa Nam. Khi thấy hoàng nhi về, vương muốn bãi quân thì bị Phạm Trạch, Lê Tấn bắt giam vương cùng cung quyến quản thúc tại phủ đệ của vương. Chư đệ tử phái Tản-viên vừa cứu thoát vương xong.

– Thế công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa với phò mã Thân Thừa-Quý đâu?

– Đúng ra vua Bà cùng Thân phò mã đem các đạo quân về dẹp loạn. Đạo Thượng-oai, Phong-châu hoàng nhi dùng vào việc trấn Thăng-long. Hiện đang đuổi theo giặc về hướng Trường-yên. Đạo thứ ba do Nùng Tồn-Phúc chỉ huy, gồm quân của y tại châu Thảng-do, quân của em y là Tồn-Lộc tại châu Vạn-nhai; quân của em vợ y là Dương Đạo tại châu Vũ-lặc, tiến về trấn cửa Diệu-đức và các bến thủy quân. Còn chính quân của Bắc-biên định để giữ nhà, thần nhi khuyên vua Bà rằng: Bọn Hồng-thiết giáo ẩn thân ở Bắc-biên rất nhiều. Nay ta vờ điểm quân về cứu Thăng-long, tất ở nhà chúng nổi dậy. Ta đi giữa đường, thình lình trở về, diệt hết bọn chúng. Hiện dư đảng Hồng-thiết giáo ở Bắc-biên đã quét hết.

Thuận-Thiên hoàng-đế hài lòng. Ngài hỏi:

– Hoàng nhi định giải quyết phần còn lại ra sao?

– Hiện tất cả các trấn, phủ, huyện, châu quận đã dẹp hết dư đảng Hồng-thiết giáo. Tuy nhiên loạn vừa dứt, dân chúng chưa an. Vậy thần xin trao Thăng-long cho Khai-Thiên vương chỉ huy các đạo quân Ngự-long, Bổng-nhật, Quảng-thánh, Cấm-quân, Thị-vệ trấn thủ. Nội cung nhờ đệ tử Mê-linh. Hạm đội Âu-Cơ chuyển lên trấn vùng lãnh hải giáp Trung-nguyên. Hạm đội Bạch-đằng trấn Thăng-long. Đạo quân của Nùng Tồn-Phúc cho về trấn Bắc-biên. Thần xin đem hai đạo Thượng-oai, Phong-châu, cùng đoàn đệ tử Tản-viên, Tiêu-sơn đuổi theo giặc về Trường-yên.

Thuận-Thiên hoàng đế gọi Khai-Thiên vương lại bên dường:

– Ta nghe nói Triệu Liên-Phương bị Hồng-thiết giáo làm nhục. Nó âm thầm luyện Mê-linh kiếm pháp để tự tay giết tên Hoàng Văn hầu trả hận. Nó… nó… bị trúng độc của Hoàng-Văn, tuy Thiệu-Thái hút độc tố cứu nó. Nhưng nó đã dùng kiếm tự sát để tạ tội với con. Nay ta ban chỉ ân xá cho Liên-Phương. Vậy con hãy dùng lễ vương phi an táng, chẳng nên nghĩ đến tội lỗi cũ làm gì.

Khai-Thiên vương quỳ xuống khấu đầu:

– Thần nhi xin tuân chỉ phụ hoàng.

Đến đây Thuận-Thiên hoàng-đế quá mệt nhọc, ngài nắm tay Khai-Quốc vương:

– Ta xuất thân là Phật-tử. Trong suốt thời gian làm vua, ta đem đức từ bi, hỷ xả của đức Thế-tôn ra tạo hạnh phúc cho dân. Không ngờ cuối đời ta lại gặp cái nạn này. Vậy Hoàng-nhi đem quân dẹp giặc, cũng nên khoan thứ cho kẻ ác một lần nữa. Dùng hình pháp chỉ là bất đắc dĩ. Thôi con lên đường mau.

Khai-Quốc vương từ tạ Thuận-Thiên hoàng-đế rồi ra ngoài. Vương dẫn Khai-Thiên vương đến điện Càn-nguyên tuyên chỉ của Hoàng-đế đến các thân vương cùng văn võ bách quan. Vương dặn anh:

– Họp chư tướng, thống chư quân, tụ anh hùng… anh không bằng em. Nhưng an định, tổ chức cai trị, nắm giữ giềng mối em không bằng anh. Vậy anh giữ Thăng-long, để em đi dẹp giặc.

Vương phân chia các tướng: Dương Bình, Tạ Sơn, Quách Thịnh, Lý Huyền-Sư, ở lại trấn Thăng-long. Còn Thông-Mai, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Lý Nhân-Nghĩa đuổi theo giặc về Trường-yên.

Sáng hôm sau, đô đốc Vũ Minh khải với Khai-Quốc vương rằng đêm qua Vũ-Đức vương cùng bọn ma đầu Hồng-thiết giáo với quân sĩ thuộc quyền đã rút về hướng Trường-yên hội quân với Nhật-Hồ lão nhân. Trong khi rút dọc đường, quân sĩ thuộc đạo Quảng-vũ dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Khánh bỏ trốn hết. Từng toán lẻ tẻ đã về trình diện Thái-tử thiếu-phó Dương Bình. Họ đã được ân xá, đội ngũ lại giữ nguyên như cũ. Chỉ có rất ít đội trưởng theo Nguyễn Khánh mà thôi.

Khai-Quốc nói với Dương Bình:

– Phiền Dương sư huynh đích thân tổ chức, chỉ huy đạo Quảng-vũ. Hãy cho quân, tướng nghỉ về thăm nhà trong nửa tháng, để an ủi họ sau một thời gian lo lắng, kinh hãi.

Ưng binh vào trình Khai-Quốc vương một ống đựng thư. Vương mở ra coi, thì ra thư của vương phi Thanh-Mai. Thông-Mai vốn cực kỳ sủng ái cô em gái này, chàng quên cả lẽ trung dung, hấp tấp hỏi:

– Quốc vương. Thanh-Mai ra sao?

Khai-Quốc vương cảm động về tình yêu của ông anh dành cho vợ mình. Vương cầm lấy tay chàng:

– Chắc là không sao, nên mới có thư dài thế này.

Vương đọc lướt qua, rồi nói với chư tướng:

– Nhật-Hồ lão nhân đích thân chỉ huy đánh trang Thiên-trường cùng Trường-yên. Lão thất bại tại Thiên-trường, nhưng Trường-yên thì bất phân thắng bại. Ta phải tiếp cứu Trường-yên ngay.

Vương hô mọi người lên đường. Khi ngựa cách xa Thăng-long khoảng bẩy chục dặm, thì gặp đạo quân Thượng-oai đang đi phía trước. Hà Thiện-Lãm, Trường-Ninh; Lưu Tường, Hồng-Phúc cứ mỗi cặp ngồi trên một bành voi. Lý Nhân-Nghĩa cỡi ngựa đi hậu quân. Lý Nhân-Nghĩa là học trò Bảo-Hòa, vì vậy khi y thấy Khai-Quốc vương với Bảo-Hòa, thì vội vã xuống ngựa đứng ven đường:

– Thần xin bái kiến vương gia.

Y cung kính hướng Bảo-Hòa:

– Đệ tử khấu đầu trước tiên cô.

Bảo-Hòa hỏi:

– Nhân nghĩa! Có tin gì lạ không?

– Tấu cô đúng như Khai-Quốc vương dự đoán, đạo quân của Đặng Trường không rút về Trường-yên, mà rút về Thiên-trường. Cho nên thiếu hiệp Tôn Đản cứ cho quân theo xa xa. Còn đạo quân của Vũ-Đức vương thì rút thẳng về Trường-yên, nên đệ tử đuổi theo đến đây.

Y hướng Khai-Quốc vương:

– Không rõ chủ ý của Nhật-Hồ lão nhân ra sao, mà y cứ nhất định chiếm bằng được Trường-yên. Y tung hầu hết đệ tử công thành Trường-yên, nhưng bên trong, vương phi với Ngô An-Ngữ phòng ngự rất chắc, nên đệ tử Hồng-thiết giáo với Hồng-hương thiếu niên chết khá nhiều.

Khai-Quốc vương giảng giải:

– Không phải y ngu đâu, mà có tính toán đàng hoàng. Sau khi xúi dục Dực-Thánh vương làm loạn thất bại, y dùng toàn lực chiếm lấy Trường-yên. Vì Trường-yên là thủ phủ tổng trấn Nam-thùy Đại-Việt. Y nghĩ rằng Đàm Toái-Trạng trấn Thanh-hóa sẵn rồi. Nếu y chiếm Trường-yên nữa, thì y có một giải đất phía Nam. Bấy giờ y cố thủ, nếu triều đình đem quân đánh, e phải tổn thất rất nhiều. Nhân đó y xin cho Dực-Thánh vương trấn thủ Nam-thùy làm mộc vị. Y sẽ dùng giáo chúng tại Chiêm-thành, Chân-lạp nổi dậy, rồi y chiếm hai nước này, sát nhập với mảnh đất Nam Đại-Việt, nghiễm nhiên y có một nước lớn hơn Đại-Việt. Bấy giờ y mới cất quân chiếm Thăng-long.

Mọi người đều công nhận lý luận của Khai-Quồc vương đúng. Vương tiếp:

– Cho nên ta nhanh tay, cho hạm đội Bạch-đằng âm thầm chiếm Thanh-hóa, Nghệ-an, trong khi ta đem quân từ Thăng-long về. Thế là y bị kẹt cứng ở giữa. Bây giờ y đang đắc thế vây Trường-yên. Mấy hôm nữa các đạo quân của ta tới, tất y phải lui về Thanh-hóa. Nhưng Thanh-hóa đã về ta rồi. Quân của y nghe tin, thì không đánh cũng tan.

Lý Nhân-Nghĩa hỏi:

– Khi thần nghe tin vương gia về, thấy vương gia tụ quân đông gấp mấy quân giặc, thần những tưởng vương gia sẽ tung quân thẳng tay dẹp loạn. Không ngờ vương lấy số đông ép cho giặc tan rã. Binh pháp đó gọi tên là gì vậy?

Khai-Quốc vương giảng giải:

– Trong Dụng binh yếu chỉ của công chúa Thánh-Thiên, thiên Phương lược. Cô-gia đánh vào nhân tâm các đạo binh bằng chính đạo, rồi dùng lực ép. Như vậy địch tự nhiên phải mất tinh thần, tự tan rã.

Một kị mã từ trước phi ngựa lại như bay. Y thấy tiền quân của đạo Thượng-oai thì gò ngựa lại nói:

– Tôi là đệ tử phái Đông-a, xin được gặp chúa tướng cao nhất ở đây.

Hà Thiện-Lãm vội dẫn y đến yết kiến Khai-Quốc vương. Khai-Quốc vương nhìn thấy trên ngực y đeo hai con chim ưng, thì biết y là đệ tử đời thứ nhì như Thanh-Mai. Vương hỏi:

– Sư đệ từ đâu tới. Sư đệ là đệ tử của vị nào trong Thiên-trường ngũ kiệt?

– Thưa vương gia, đệ tên là Đào Hiển, sư phụ của đệ tên Vũ Anh. Đệ muốn khải với vương gia một vài tin tức.

– Ta đang mong tin tức của môn phái Đông-a đây. Ta là chồng của Thanh-Mai, vậy sư đệ cứ coi như ta ngang vai với sư đệ.

– Đa tạ sư huynh. Cách đây ít ngày, sư phụ được thư của sư huynh, thì người chuẩn bị đối phó với giặc ngay.

– Lực lượng của phái Đông-a tổ chức như thế nào?

Nghe vương hỏi, Đào Hiển nghĩ thầm:

– Vị vương gia này muốn hỏi mình xem những thay đổi về tổ chức của bản phái đây. Chứ vương từng điều khiển Khu-mật viện không lẽ vương không biết tổ chức của lực lượng Đông-a.

Vì vậy chàng cung tay đáp:

– Thưa sư huynh, từ trước đến giờ đệ tử bản phái có năm đoàn. Đoàn khăn trắng tức Thiết-kị, đoàn khăn đen tức Thủy-quân. Đoàn khăn xanh tức Thần-nỏ. Đoàn khăn đỏ, khăn vàng tức lực lượng bộ chiến. Mỗi đoàn một nghìn linh tám mươi mốt người, tất cả đều ở nhà làm ăn. Khi có sự, nhanh chóng tập trung tại những địa điểm ước định riêng để nhận lệnh.

Khai-Quốc vương tỏ vẻ tin tưởng:

– Thế cuộc nghinh chiến bọn Nhật-Hồ ra sao?

– Thư của sư huynh đến nơi thì chỉ nửa ngày sau, chư đệ tử đều tề tựu. Vì đại-sư bá vắng nhà, nên sư phụ của đệ cầm quyền. Người sai một đệ tử khẩn liên lạc với sư huynh Ngô An-Ngữ tổng trấn Trường-yên. Đúng lúc đó sư huynh An-Ngữ cũng nhận được chỉ dụ của vương gia. Nhưng lực lượng của Ngô sư-huynh tại Trường-yên chỉ có đạo Thiết-kị cùng đạo quân Thị-vệ vương phủ, mỗi đạo không quá nghìn người. Trong khi lực lượng phản loạn rất đông.

Đào Hiển ngừng lại thở, rồi tiếp:

– Sư huynh Ngô An-Ngữ cầu cứu với sư phụ. Sư phụ đang phác họa kế sách thì sư huynh Bảo-Dân cùng sư tỷ Thanh-Mai về. Sư tỷ Thanh-Mai đưa ra kế hoạch rằng: Nếu dùng lực đánh bọn Nhật-Hồ, thì chúng chết hết mình cũng chết mấy vạn người. Vậy ta dùng tâm chiến sao cho quân của chúng rã hết. Bấy giờ ta tung quân bắt hết bọn ma đầu là xong. Hịch do chính sư tỷ soạn. Nhưng hịch vừa soạn xong thì nhận được chiếu chỉ của Hoàng-thượng. Sư tỷ bèn sai sao làm nhiều bản, rồi cho chim ưng gửi đi khắp nơi. Sư phụ gửi hai nghìn đệ tử đến Trường-yên giúp sư tỷ Thanh-Mai. Với hai nghìn quân, ba nghìn đệ tử bản phái, không thể dẹp nổi bẩy vạn quân của Đàm Toái-Trạng. Vì vậy sư tỷ chỉ giữ thành, chờ quân Thăng-long tiếp cứu. Vì vậy trận chiến Trường-yên cực kỳ khốc liệt.

Khai-Quốc vương kinh hãi:

– Tại sao sư tỷ không gửi thư cầu cứu ta?

Mỹ-Linh đứng cạnh vương, nàng nói:

– Chú hai không hiểu thím tý nào cả. Thím vốn là người cực kỳ can đảm, lại hết tâm hết chí lo cho Đại-Việt, nên dù khổ sở, lo lắng đến đâu cũng cắn răng chịu đựng. Vụ cứu Đoàn Huy là một chứng cớ. Khi thím giữ Trường-yên thì thím biết rằng quân số của chú ở Thăng-long cũng không nhiều. Nên thím cố thủ, chờ chú giải vây Thăng-long, rồi cứu viện Trường-yên cũng không muộn. Bằng thím cầu cứu với chú, thì Thăng-long không đuổi được giặc, mà cứu Trường-yên cũng chẳng nổi.

Khai-Quốc vương rùng mình:

– Còn mặt trận Thiên-trường ra sao?

Đào Hiển đáp:

– Nhật-Hồ lão nhân đem lực lượng Hồng-thiết cùng Hồng-hương về đánh úp Thiên-trường. Khi y vừa tới nơi, thấy môn phái Đông-a phòng thủ nghiêm mật, thì chột đạ. Nhưng y nghĩ rằng với hai vạn rưỡi người, y dư sức đàn áp hai nghìn đệ tử bản phái. Y dàn quân bao vây quanh trang Thiên-trường, rồi cho người vào mời đại sư bá ra thương lượng. Bấy giờ đã là giờ Thân. Sư phụ hành sự theo kế hoạch của sư huynh gửi về là chần chờ kéo dài thời gian ra. Người hẹn giờ Ngọ hôm sau người sẽ ra cổng chính gặp lão. Lão cho các đạo giáo chúng thuộc trung ương lùi ra xa mười dặm đóng trại, chỉ để bốn đạo Thanh-hóa, Cửu-chân, Trường-yên, Thiên-trường với đội Thiết-kị bao vây.

Bảo-Hòa cười:

– Lão già Nhật-Hồ một đời xảo trá, không ngờ bị sư thúc Vũ Anh lừa cho. Y thất bại là phải.

Đào Hiển gật đầu:

– Đúng như tiên cô nói. Nhật-Hồ tưởng vây được trang là xong. Y đâu ngờ khắp vùng Thiên-trường đều có đệ tử của bản phái. Hôm ấy đám giáo chúng vào làng xóm bắt trâu, bò, lợn, gà ăn. Đệ tử bản phái ẩn trong dân được lệnh từ trước, đem thuốc độc tẩm vào rau tặng cho chúng, lại sai tẩm thuốc độc vào cỏ dâng cho chúng nuôi ngựa. Chúng ăn vào, đêm người ngựa bị tháo dạ nằm la liệt.

Thiệu-Thái hỏi:

– Hồng-thiết giáo nổi danh về dùng độc. Chúng trị độc rất giỏi, tôi sợ đánh thuốc độc chúng e khó thành công.

Mặt Đào Hiển hiện ra vẻ tự đắc:

– Sư phụ biết rất rõ điều đó. Sư thúc Trần Kiệt được Hồng-Sơn đại phu cho biết, phàm đánh thuốc độc phải hơn giờ mới kết quả. Nhưng khi trúng độc rồi, muốn cứu chữa, phải sáu giờ sức khoẻ mới phục hồi. Trong thời gian đó, ta ra tay được rồi. Sư thúc còn biết rằng, khi mặt trời lặn, bọn ma đầu Hồng-thiết giáo sẽ ở trong những mật thất hành dâm với gái tơ, tuyệt đối không cho ai vào. Vì vậy dù giáo chúng bị bệnh, dù bị tấn công, không ai được vào chỗ chúng ngủ.

Khai-Quốc vương gật đầu:

– Ngũ sư thúc thực mưu trí không thua công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa thời Lĩnh-Nam. Sư đệ tiếp cho.

– Đến giờ Sửu, biết rằng người ngựa đội quân Hồng-thiết giáo cùng đám đệ tử Nguyên-Hạnh đều bệnh nghiêng ngửa. Sư thúc ra lệnh cho chư đệ tử thình lình xông ra tấn công vào hai đạo kị binh đóng trước cửa Nam và Bắc. Tại cửa Nam, nghìn đệ tử bản phái, bắt sống hơn hai nghìn kị binh. Tại cửa Bắc, đệ tử bản phái vừa mở cửa ra, thì năm đạo đệ tử Hồng-thiết giáo phất cờ theo. Thì ra họ đều là người của Khu-mật viện. Sau khi đánh chớp nhoáng, anh em rút vào trang. Bây giờ trong trang thêm bẩy nghìn đệ tử Lạc- long giáo của Khu-mật viện. Bốn thiếu niên chỉ huy bốn đạo Lạc-long giáo trình thẻ bài của vương gia ra. Họ tên là Trần Anh, Tôn Mạnh, Tôn Trọng, Tôn Qúy. Tiểu sư muội Thanh-Nguyên thấy bốn thiếu niên thì mừng lắm.

Mỹ-Linh reo lên:

– Thì ra mấy ông mãnh đó.

Thông-Mai hỏi:

– Công chúa. Họ là ai vậy?

– Chúng là bạn của Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm. Trước kia chúng có biệt danh là Tân-quy thất quỷ bởi chúng phá phách khiếp lắm. Từ khi Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm vão kinh, chúng ở lại, và được một cao nhân phái Mê-linh thu làm đệ tử. Chú hai mật lệnh cho chúng nhập vào Lạc-long giáo để mai này có dịp giúp nước.

– Đúng như công chúa nói. Bốn thiếu niên từ tư cách, đến võ công đều khác thường. Chúng tôi vội đem thuốc cứu chữa cho anh em Lạc-long giáo Khu-mật viện. Đến sáng họ khỏi hẳn. Trong khi đó đám Hồng-thiết giáo còn nằm nghêng ngả, bởi các đại ma đầu chưa ra khỏi nơi hành dâm. Sư thúc Trần Kiệt tung bẩy đội Hồng-hương thiếu niên với hai nghìn đệ tử bản phải đánh ra. Ba nghìn Lạc-long giáo còn lại theo chúng tôi, trở giáo đánh bọn Hồng-thiết. Tuy đám đệ tử Hồng-thiết giáo người ngựa bị bệnh, nhưng chúng cũng cố gắng chống trả. Phải hơn giờ chúng tôi mới thu phục được chúng. Về ngựa, chúng tôi bắt trọn. Về giáo chúng thì hơn bốn nghìn đầu hàng, họ tự nhận là Lạc-long giáo, chứ không phải là Hồng-thiết giáo. Gần nghìn bị giết.

Thông-Mai nhăn mặt, tỏ vẻ không vui. Đào Hiển hỏi:

– Dường như sư huynh có điều gì không vui?

– Đúng thế. Các vị sư thúc cứ dem lòng dạ mình mà đo lòng bọn Nhật-Hồ. Nếu như sau khi giải vây Thiên-trường, lợi dụng bọn chúng đang bệnh, mà ma đầu không hiện diện. Nếu sư thúc xua toàn bộ đệ tử vượt mươi dặm tới chỗ đóng quân của chúng, tiêu diệt hết đám bộ chiến, thì có phải êm rồi không?

– Sư thúc Phạm Hào cũng bàn thế. Các sư thúc cho rằng nếu mình thừa thắng xông lên ắt diệt được chúng. Nhưng đệ tử mình cũng hao mấy trăm. Chi bằng mình rút, chúng không chính nghĩa, đánh đã không nổi, thì phải rút. Rút thì quân sẽ tan.

Khai-Quốc vương gật đầu:

– Tam sư thúc nghị đúng. Rồi tình hình ra sao?

– Hôm sau quả nhiên Nhật-Hồ ra lệnh cho rút quân về tấn công Trường-yên. Sư phụ sai đệ đến báo cho sư huynh biết, người đã đem một vạn người tiếp viện cho sư tỷ Thanh-Mai.

Lý Nhân-Nghĩa hỏi:

– Lúc sư huynh tới đây có gặp đạo quân của Đặng Trường rút về không?

– Hoàn toàn không.

Mỹ-Linh kinh ngạc:

– Vậy chúng đi đâu?

Khai-Quốc vương truyền Lý Nhân-Nghĩa lên tiền quân, lệnh cho Hà Thiện-Lãm dừng quân lại chờ lệnh. Lát sau voi chở Hà Thiện-Lãm, Lưu Tường, Trường-Ninh, Hồng-Phúc trở lại.

Vương gọi Hà Thiện-Lãm lại gần:

– Trong khi thiết kế giải phóng Thăng-long, ta được tin Nhật-Hồ lão nhân truyền rằng: Nếu như bọn phản loạn ở Thăng-long thất bại, thì Đặng Trường rút về Thiên-trường, rồi tiến lên đóng ở núi Cánh-diều. Còn Vũ-Đức vương thì rút về đóng ở bờ sông đánh cửa Bắc thành Trường-yên. Vì biết thế, nên ta ra lệnh cho Thuận-Tông với em nới vòng vây cho chúng chạy, rồi đuổi theo xa xa, khiến quân của chúng tự tan vỡ.

Vương ngừng lại suy nghĩ rồi tiếp:

– Bởi vậy ta lệnh cho em với Tôn Đản, Cẩm-Thi, Lê Phụng-Hiểu đuổi theo Đặng Trường. Thuận-Tông với Lê Văn đuổi theo Vũ-Đức vương. Để gây hoang mang cho giặc, ta dặn em với Thuận-Tông rằng: Khi tới ngã ba đi Trường-yên, Thiên-trường thì đổi lại Lê Văn, Lý Nhân-Nghĩa đi với em hướng Thiên-trường theo Đặng Trường. Còn Thuận-Tông với Tôn Đản, Cẩm-Thi, Lê Phụng-Hiểu hướng Trường-yên theo Vũ-Đức vương.

Thiện-Lãm đáp:

– Thì chúng em làm đúng như lệnh anh ban ra.

– Em theo đạo binh Đặng Trường, thế sao nay chúng lại biến mất. Nếu chúng đi Thiên-trường, thì Đào sư đệ từ Thiên-trường tới đây phải gặp chúng chứ. Hà, chúng đi đâu mất?

Hà Thiện-Lãm nói:

– Tuy em theo chúng xa xa, không nhìn thấy binh mã chúng, nhưng dọc đường vẫn theo dõi dấu vết chúng để lại. Kìa đại ca xem, con đường trước chúng ta vẫn đầy phân ngựa, cùng dấu chân người, đâu có sai. Em lại cho đến sáu cặp chim ưng theo chúng. Một cặp theo tiền quân, một cặp theo trung quân và một cặp theo hậu quân, làm sao chúng chạy thoát được.

Đào Hiển nhìn xa xa thấy ba cặp chim ưng bay lượn, chàng tỉnh ngộ:

– Đúng rồi, thì ra bọn Đặng Trường ẩn vào thôn Yến-vĩ sương-sen, thành ra trên đường đi đệ không gặp.

Khai-Quốc vương quyết định:

– Bây giờ thế này, Lê Văn, Lý Nhân-Nghĩa, Mỹ-Linh đem theo đạo binh Thượng-oai của Hà Thiện-Lãm đánh Yến-vĩ sương-sen. Ta sẽ viết thư xin phái Đông-a viện cho một số đệ tử. Còn lại chúng ta tiếp cứu Trường-yên khẩn cấp.

Hà Thiện-Lãm Hỏi:

– Trong bọn em, ai làm chúa tướng?

– Lý Nhân-Nghĩa làm quân sư, Hà Thiện-Lãm làm chúa tướng. Còn võ công thì nhờ Mỹ-Linh, Lê Văn. Thôi lên đường mau.

Đào Hiển lên ngựa phi trước dẫn đường. Đoàn quân rầm rập di chuyển. Khoảng hai giờ sau thì tới Yến-vĩ sương-sen. Xa xa Mỹ-Linh đã thấy một đoàn tráng sĩ cỡi ngựa đi đi, lại lại xung quanh những lũy tre bao bọc. Một người trưởng toán cầm ngang thanh đao, ngăn đạo quân Thượng-oai lại hỏi:

– Các vị thuộc đạo quân nào? Cho tôi gặp người chỉ huy.

Thiện-Lãm từ bành voi tung mình nhảy xuống, chàng đánh dứ vào mặt người trưởng toán một cái. Người trưởng toán lạng mình tránh khỏi. Thiện-Lãm lại tấn công liền hai chiêu, rồi nói:

– Thằng em không nhớ anh mày sao?

Người trưởng toán nghe tiếng Thiện-Lãm thì liệng đao, rồi nhảy đến ôm lấy chàng. Hai người bật lên tiếng khóc, khóc nức nở, rồi lại buông nhau ra cười. Thiện-Lãm vội nói:

– Để ta giới thiệu mi với chị Trường-Ninh, và các bạn.

Chàng cầm mũi người đó tới trước Trường-Ninh:

– Hiền muội! Anh vẫn thường nói với hiền muội rằng hồi xưa bọn anh có bẩy đứa sống trong thôn Tân-quy. Vì phá phách quá, người ta gọi bọn anh là Tân-quy thất quỷ. Lớn nhất là anh Đản, lớn nhì là Thuận-Tông, anh đứng hạng ba, thứ tư là Trần Anh. Nó là em, mà tên lại là Anh. Đây nó đây.

Trần Anh chắp tay:

– Trần em xin ra mắt bà chị.

Trường-Ninh đáp lễ:

– Thì ra những bậc anh hùng hào kiệt đều có phong tư khác nhau. Chị nghe nói về cậu hoài, nay mới được gặp. Cậu đang lĩnh nhiệm vụ gì ở đây?

Trần Anh cung kính:

– Sau khi anh Đản, Tông, Lãm về kinh, bốn đứa em được một vị sư thái thuộc phái Mê-linh nhận làm đệ tử. Từ đấy chúng em luyện võ. Khi Hồng-thiết giáo thành Lạc-long giáo, bọn em gia nhập giáo này, và mau chóng trở thành bốn đạo trưởng. Mỗi đứa chúng em coi một đạo. Em coi đạo Cửu-chân. Tôn Trọng coi đạo Nghệ-an. Tôn Mạnh coi đạo Trường-yên. Tôn Quý coi đạo Thiên-trường. Lúc bọn Nhật-Hồ tạo phản, chúng em định chống đối, nhưng nhận được mật lệnh của Khu-mật viện bảo phải giả thuận theo chúng, rồi chờ thời cơ làm lợi cho Đại-Việt. Khi tiến quân đánh tổng đàn phái Đông-a, thình lình chúng em trở giáo, làm cho chúng chạy bán mạng.

Mỹ-Linh đã tới, nàng quên cả câu nam nữ thụ thụ bất thân, quên cả thân phận cô công chúa cao quý. Nàng nắm tay Trần Anh:

– Em của chị to lớn kềnh càng thế này ư? Lúc xa em, chị với Đản nhắc đến em luôn.

Thình lình Trần Anh cung tay:

– Đệ Trần Anh xin tham kiến sư tỷ chưởng môn.

Mỹ-Linh hỏi:

– Em là đệ tử của cao nhân nào trong bản phái vậy?

– Em là đệ tử của sư thái Tịnh-Huyền. Còn ba đứa này thì một vị khác của bản phái thu làm đệ tử. Khi truyền võ cho ba đứa em, người dặn rằng tuyệt đối không được tiết lộ danh tính người, bằng không người sẽ cắt chân.

Mỹ- Linh nhìn Thiện-Lãm, rồi mỉm cười. Thiện-Lãm cũng cười theo. Trần Anh cúi xuống:

– Sư tỷ đoán ra sư phụ của ba đứa rồi ư?

Mỹ-Linh gật đầu.

Trần Anh trình bầy:

– Sáng nay, trên đường tiếp viện Trường-yên, thì có tin báo một đoàn quân của Hồng-thiết giáo rút về đóng ở Yến-vĩ sương-sen. Đại hiệp Trần Kiệt truyền cho chúng em bao vây làng liền. Nhưng vì quân số giặc đông ngang với bọn em, nên bọn em chỉ bao vây tuần phòng, mà không tấn công. Hồi nãy có chim ưng báo rằng một đạo quân triều đình đuổi theo giặc sắp tới, bọn em phải tiếp đón, và nghe lệnh tướng chỉ huy.

Mỹ-Linh chỉ Thiện-Lãm:

– Nguyên soái đạo quân này là Hà Thiện-Lãm. Quân sư là Hổ-uy đại tướng quân Lý Nhân-Nghĩa đây. Còn chị là… Thiên-lôi chỉ đâu đánh đó.

Chợt nhớ ra một truyện, Lê Văn hỏi Đào Hiển:

– Đào đại ca này, tôi muốm hỏi thăm đại ca tin tức một người?

– Ai thế?

– Phu nhân của sư thúc Hoàng Hùng.

Đào Hiển chợt nhớ ra, sư thúc Hoàng Hùng của chàng kết hôn với một đệ tử phái Sài-sơn tên Quỳnh-Dao. Võ công của bà rất bình thường, nhưng y thuật cực cao minh. Trước kia bà là một trong những hoa khôi trong đám đệ tử Sài-sơn. Từ ngày về Thiên-trường, gần như bà chỉ biết chữa bệnh suốt ngày, nên ai ai cũng quý mến, kính trọng bà.

Đào Hiển đáp:

– Sư thẩm hiện theo sư thúc tiếp cứu Trường-yên. Người vẫn thường nhắc đến Văn đệ luôn. Đợi xong việc Yến-vĩ, Văn đệ tới giải vây Trường-yên sẽ gặp bà.

Mỹ-Linh đi một vòng giới thiệu Lê Văn, Lưu Tường, Hồng-Phúc với đám Trần Anh. Hà Thiện-Lãm hỏi Lý Nhân-Nghĩa:

– Hổ uy đại tướng quân, bây giờ chúng ta đánh Yến-vĩ sương-sen như thế nào đây?

Đào Hiển móc trong túi ra một cuộn giấy trải xuống… lưng ngựa:

– Đây là bản đồ làng Yến-vĩ. Cũng như tất cả các làng khác, làng có hai cổng chính. Cổng tiền hướng về Bắc. Cổng hậu hướng về Nam. Phía Đông, Tây đều có cổng xép mở cho trâu cùng lực điền đi làm. Làng được bao bọc bởi hai lớp. Lớp ngoài cùng là hào sâu gần hai trượng, dưới hào chông gai chằng chịt. Sau hào sâu tới những lũy tre đồng gộc rất dầy. Bề dầy lũy có chỗ tới bốn trượng, gai góc tua tủa. Bề cao lũy từ hai tới năm trượng. Ta không thể phá nổi.

Chàng chỉ vào bốn cái cổng:

– Đường tiến công duy nhất là mấy cái cổng. Nhưng trong cổng chúng đã làm những con bùi nhùi rơm ngăn mất lối đi, tên bắn không thể nào xuyên vào trong được. Rồi chúng thủ sau bùi nhùi, dùng cung tên chống. Không biết Lý tướng quân định sao?

Lý Nhân-Nghiã hỏi:

– Trong làng có bao nhiêu dân ở?

– Khoảng ba nghìn hơn là dân lương thiện, còn lại hơn hai nghìn là phường trốn chúa lộn chồng. Tổng cộng tráng đinh hơn hai nghìn. Hương trưởng là con điếm già Anh-Tần, đệ tử của Đặng Trường.

Lý Nhân-Nghiã thở dài:

– Khó đấy, Đặng Trường đem từ Thăng-long về nghìn thiết kị, hai nghìn giáo chúng, cộng thêm hai nghìn tráng đinh, như vậy chúng có tới năm nghìn người. Trong khi lực lượng của thiếu hiệp Trần Anh năm nghìn, cộng với một nghìn của châu Thượng-oai. Về quân số hai bên tương đương nhau. Tuy nhiên ta có trăm hổ, trăm báo, mười voi, trăm chim ưng thì sức mạnh bằng mấy vạn người. Nếu ta thẳng tay thì dễ quá. Đằng này tên Đặng Trường muốn dựa vào dân chúng để ẩn thân. Ném chuột sợ vỡ đồ, ta không thể dùng sức mạnh được.

Mỹ-Linh lắc đầu:

– Lý tướng quân đánh thế nào thì đánh, miễn đừng để dân chúng chết oan là được rồi.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.