Ân Thù Kiếm Lục

Chương 31: Kỳ ngộ chờ kỳ nhân



Người đó chính là Vạn lão phu nhân.

Đang nhai ô mai, nằm trở lại trong cỗ quan tài, bà gật gù, nhếch nụ cười đắc ý :

– Còn sớm chán, vội gì ra bên ngoài? Khi nào cục trường khai diễn thì sẽ ra mà nhìn. Bây giờ nằm nghỉ lưng cho khỏe, tội gì phải ngồi như bao nhiêu người bên dưới đó?

Bỗng bà giật mình nhận thấy một cành cây nhỏ, do ai đó thọc qua khe hở nắp quan tài.

Một cành cây nhỏ như thế dù khều động một chiếc gối bông, cành yếu cần chứ gối chẳng nhúc nhích, vậy mà cành cây đó như có một mãnh lực vô hình, nhích động nổi nắp quan tài.

Nắp quan tài từ từ dở lên, lên mãi…

Vạn lão phu nhân xanh mặt cố níu nắp quan tài, kéo trì xuống.

Vô ích. Bà vận dụng toàn công phu nội lực cũng chẳng trì nắp quan tài xuống nổi, nó cứ từ từ nâng lên, không bật mạnh, dù Vạn lão phu nhân đang níu nó xuống.

Nó mở lên theo đúng một nhịp độ, chỉ trong mấy phút giây, nó phải lên được bao nhiêu phân, đều đều…

Vạn lão phu nhân sợ quá vừa trì nắp áo quan vừa dán mắt nhìn qua khe hở, thấy một chiếc áo màu xanh.

Thấy chiếc áo đó rồi Vạn lão phu nhân càng xanh mặt hơn.

Bất giác bà thun người tròn như con cuốn chiếu.

Bên ngoài có tràng cười trong trẻo rồi một giọng nói cũng trong trẻo vang lên :

– Tôi biết lắm, thế nào rồi bà cũng đến đây xem cái trò nhiệt náo. Tôi đã tìm bà khắp nơi trong tàng cây, trong hốc đá, xa cũng như gần, chẳng thấy bà, tôi hết sức lạ lùng cứ tưởng bà đã học được thuật tàng hình. Ngờ đâu bà lại chui vào quan tài này! Ý kiến đó rất hay, rất hay bà ạ!

Giọng cười, giọng nói đó hầu như duy nhất trên thế gian này. Ngoài Tiểu công chúa ra, còn ai có được?

Thật ra nhìn thấy chiếc áo không cần thấy người Vạn lão phu nhân đã nhận rõ người rồi.

Bây giờ nghe thêm giọng cười giọng nói bà không còn nghi ngờ gì nữa, bà không cho là mình nằm mộng nữa.

Chiếc nắp quan tài từ từ bổng lên, bên trong Vạn lão phu nhân lại thun mình gọn hơn, tròn hơn.

Bà giấu chiếc đầu trong vòng tay, hai tay đè đầu xuống cho thực tròn người.

Tiểu công chúa hỏi :

– Trốn mãi sao bà? Trốn mà được sao? Ra đi nếu chiếc nắp quan này bật lên thì còn ăn nói làm sao được với nhau hở bà?

Vạn lão phu nhân run run giọng :

– Cô nương… Tiểu công chúa… tìm già, hẳn có việc chi chứ?

Bà cố làm ra vẻ ngạc nhiên, vô sự, nhưng trước Tiểu công chúa bà mất hẳn tự chủ. Thành ra, càng cố thản nhiên, lại càng lúng túng.

Tiểu công chúa điềm nhiên :

– Chẳng có việc chi lớn lao đâu bà ạ! Bất quá tôi muốn hỏi bà, giờ này Phương Bửu Ngọc ở đâu? Chỉ hỏi vậy thôi!

Vạn lão phu nhân cố cười cho ròn, song cái giọng ròn đứt đoạn biểu lộ rõ rệt vẻ gắng gượng.

Nương theo tràng cười bà thốt :

– Phương Bửu Ngọc! Cái vị thiếu gia đó hành tung như gió, như mây, sớm Nam chiều Bắc, nghe hiện đó rồi ẩn, ẩn nơi này rồi hiện nơi khác. Nơi nào cũng có mặt nơi nào cũng nhiều phiêu phưởng tợ bóng ma, già còn biết Phương thiếu gia ở đâu mà chỉ cho cô nương?

Thoạt bà gọi là cô nương thoạt bà lại gọi là Tiểu công chúa, điều này do bà cố ý, như muốn chứng tỏ nửa thừa nhận nàng nửa phủ nhận nàng.

Thừa nhận để tỏ ra cho Tiểu công chúa biết là bà chẳng bao giờ quên sự thừa ước nơi phía hậu môn giả sơn trong Khoái Tụ Viên của Tề Tinh Thọ. Phủ nhận là để tỏ ra là không phải bị ràng buộc bởi bất cứ người đó là ai.

Chỉ nội cách gọi cũng đã tỏ ra bà là người có tâm cơ thâm hiểm Đến cái tuổi quá gần cát bụi bà vẫn vận dụng tâm cơ như thường, và có thể bà sử dụng mãi đến lúc hoàn toàn thành cát bụi…

Tiểu công chúa cười nhẹ :

– Không biết thật vậy, hở bà?

Giọng nàng ấm dịu hơn, nụ cười nàng hiền hòa hơn, song Vạn lão phu nhân lại rợn người hơn…

Nếu không tự kiềm chế chắc hẳn bà phải run hàm răng đánh vào nhau cành cạch :

– Thật vậy đó… cô nương!

Tiểu công chúa vẫn cười dịu :

– Giả như thật sự bà không biết, thì tại sao bà quá sợ tôi như thế chứ? Tôi nghĩ bà đang có một trò quỷ gì, sắp sửa diễn cái trò quỉ đó với tôi đấy. Bởi đang toan tính trò quỷ nên bà mất bình tĩnh phải không?

Vạn lão phu nhân ấp úng :

– Già… đâu có…

Tiểu công chúa bình thản tiếp nối :

– Tôi hiểu bà là một người thông minh tột đỉnh. Bà thừa kinh nghiệm trường đời. Từ bao nhiêu năm qua, bà không hề để mình thiệt hại, dù phải tàn nhẫn bà cũng không ngần ngại, cốt giữ sao cho mình đừng thiệt hại. Bao nhiêu năm qua, bà đã giữ được như thế. Tại sao hôm nay bà lại không giữ luôn? Bà đã biết không thắng nổi tôi nên bà sợ tôi, đã sợ tôi sao bà còn bắt buộc tôi phải động thủ? Họa chăng bà muộn nếm thử sự thiệt hại như thế nào? Thôi bà ơi, một người già dặn như bà, trong cái tuổi xế tàn này nên tìm an nhàn hơn, cái thời thử thách đã qua rồi bà ạ!

Nàng dừng lại một chút, giọng hơi trầm :

– Nói đi bà! Nói càng nhanh, càng giữ tròn hòa khí!

Vạn lão phu nhân từ từ thốt :

– Nếu già nói ra phương trời hạ lạc của Bửu Ngọc thì Tiểu công chúa buông tha cho già, phải vậy không? Vô luận hắn ở nơi nào, Tiểu công chúa cũng…

Tiểu công chúa gật đầu :

– Phải đó bà ạ, vô luận hắn ở nơi nào!

Vạn lão phu nhân nói :

– Bằng vào đâu già tin được lời cam kết của Tiểu công chúa?

Tiểu công chúa mỉm cười :

– Không bằng vào đâu cả, mà chỉ bằng vào sự việc bà bắt buộc phải tin tôi. Trong phút giây này, bà phải tin tôi, nhất định bà không được hoài nghi lời nói của tôi, dù bà nghi ngờ! Bà biết chưa?

Vạn lão phu nhân giật mình :

– Phải! Già phải tin! Không tin không được mà. Được rồi già sẽ nói.

Tiểu công chúa cười lớn hơn một chút :

– Nói chuyện với người thông minh, lắm lúc khoan khoái lạ, mà lắm lúc cũng bực mình lạ Bà cứ nói đi!

Vạn lão phu nhân đảo mắt mấy vòng, đoạn cao giọng :

– Phương Bửu Ngọc chết rồi!

Tiểu công chúa nghe tiếng sét đánh ngay thiên linh cái.

Đầu không vỡ, nhưng tâm hồn vỡ. Nàng giật mình thấy rõ. Nàng không kịp che giấu sự biểu hiện đó trước mắt Vạn lão phu nhân.

Trong khi nàng sững sờ, Vạn lão phu nhân hất tung nắp quan tài vọt mình lên không, đảo lộn mấy vòng đáp xuống ngoài xa mươi trượng.

Không chút chậm trễ, chân vừa chạm đất, bà ấn gót lấy đà vọt đi.

Chỉ qua vài lần vọt, bà đã khuất dạng sau những tàn cây lớn.

Tiểu công chúa vẫn đứng lặng cạnh quan tài, chẳng rõ đôi mắt nàng có nhìn theo Vạn lão phu nhân không, chẳng rõ tâm hồn nàng còn trong thể xác hay không, nàng không đuổi theo bà.

Bằng một pháp truyền âm thiên lý. Vạn lão phu nhân thốt vọng lại từ nơi mông lung xa xôi :

– Thi thể của Phương Bửu Ngọc già có nhìn tận mắt. Già không lừa dối cô nương đâu! Già nói thật đấy!

Tiểu công chúa tưởng chừng mình hóa đá trơ, thân xác mặc cho sương gió đùa mãi, tâm hồn chấp cánh theo dõi một bóng hình không còn trên trần thế nữa. Nàng trầm lặng như vậy hẳn bên trong có sự suy tư. Nàng đang nghĩ gì?

Chấp cánh bay theo một bóng hình, để làm gì? Tha thiết với bóng hình đó hay phải tìm nhau để thanh toán phần còn tại của ân oán tình cừu? Ân oán tình cừu của nàng hay của ai mà nàng đứng trung gian?

Luận theo việc làm của nàng thì Phương Bửu Ngọc chết như vậy, nếu quả thật chàng đã chết như vậy thì đó là điều may hay rủi, vui hay buồn cho nàng?

Chỉ nghe một lúc sau nàng lẩm bẩm :

– Bà ấy có lừa ta chăng? Chắc là không! Nếu bà muốn lừa ta, thì thiếu chi cách khác, cần gì phải bịa chuyện đó? Bởi, lừa ta cho rằng một con người còn sống đã chết rồi sau này ta gặp lại người đó thì bà ăn nói làm sao với ta? Bà có lợi gì, lừa ta bằng cách đó? Bà ngu dại gì chẳng hiểu hậu quả của sự lừa dối đó? Bà là con người thích lợi, tránh hại kia mà…

Bên dưới cục trường biển người lại sôi động.

Ngàn người như một reo lên :

– Lãnh Băng Ngư? Thiên Thượng Phi Hoa Lãnh Băng Ngư!

Tiếng hoan hô vang lên như bão cuốn, tiếng hoan hô chấn dội khắp núi rừng song không len nổi vào tai Tiểu công chúa.

Nàng vẫn lặng người, mắt mở ra đó nhưng chẳng nhìn thấy gì, tai vẫn thính như ngày nào song tai nàng đang lắng nghe một tiếng nói xa xăm, gạt bỏ những tiếng vang quanh mình…

Một lúc lâu, nàng tự thốt :

– Bửu Nhi! Bửu Nhi chết thật rồi sao?

* * * * *

Phương Bửu Ngọc chết?

Cái tin đó nếu được loan truyền ra chỉ gây ảnh hưởng trong Ngũ Hành ma cung, tin đó không ngăn trở cuộc so tài tại đỉnh Thái Sơn đêm trung thu giai tiết.

Đại hội Thái Sơn vẫn chiếu theo ước lệ xúc tiến…

Bằng cớ quần hùng đều tề tựu tại đây, trong ngày rằm chờ đêm rằm xem cuộc chiến. Bằng cớ quần hùng vẫn đến Vạn Trúc sơn trang, chực chờ nhiều ngày qua.

Và giờ đây chỉ còn chờ thái dương hoàn toàn lặn sau dãy núi Tây là cuộc chiến bắt đầu.

Nói là cuộc chiến, nói để chứng tỏ đêm nay sẽ có những trận chiến đấu với nhau, chứ thật ra ai chiến đấu với ai, điều đó chẳng cần thiết vì ân oán tình cừu hay vì gì khác, chẳng cần biết.

Chỉ biết là có cuộc so tài thôi, và so tài phải chiến đấu. Và mỗi một cuộc so tài ít nhất cũng phải có một kẻ thọ thương nếu không tuyệt mạng.

Giờ đây cây pháo đã châm ngòi, ngòi đã cháy trọn phần ngoài, ngòi đang ngấm qua cổ pháo, chẳng có một áp lực nào ngăn trở nổi sự việc.

Nhất định là cuộc đại hội phải mở màn.

Khi hoàng hôn xuống, một thông báo được truyền đi khắp quần hùng hiện diện.

Thông cáo nói rằng :

– Con người sức lực có hạn, mà sự tiêu hao sức lực lại vô cùng cho nên dù là cao thủ, có bản lãnh siêu nhiên, cũng chẳng có thể tiếp chiến với hằng mấy mươi cao thủ khác. Ngày trước tiền nhân áp dụng chiến pháp xa luân, nghĩ ra có chỗ bất công, nhân cái lẽ vừa nêu trên. Do đó, chúng ta không nên giẫm dấu chân tiền nhân để tiếp tục sự bất công!

Để chấm dứt tệ đoan đó, một số người được tuyển chọn, lập thành ban giám sát.

Số người đó, gồm Đinh lão phu nhân, Vân Mộng đại hiệp Vạn Tử Lương và những cao thủ khác sẽ giám định các cuộc tranh tài.

Phàm những ai muốn chánh thức tham gia cuộc tỉ thí, xin đến gặp ban giám sát, lãnh thiệp chấp nhận để biết người được chỉ định giao đấu với mình. Cuộc tỉ thí này thay vì dùng đấu pháp xa luân như ngày cũ, thì được xúc tiến theo cách loại trừ, kẻ bại thì vĩnh viễn đứng ngoài vòng, kẻ thắng lại phải tái đấu với kẻ thắng, đấu đến khi nào còn lại một người duy nhất.

Với phương pháp này, các đấu thủ không phải phí sức quá độ.

Bốn mươi vị anh hùng chánh thức được mời tham dự hẳn chẳng có lý do gì dị nghị.

Và những người quan chiến chắc cũng chẳng có lý do gì dị nghị.

Thông cáo chẳng phải viết ra nhiều bản, chẳng phải dán một nơi nào mà do chính Vân Thiên Phích Lịch Hứa Trù tuyên đọc giữa quần hùng.

Đỉnh Thái Sơn có một khoảng đất bằng rộng lớn.

Trên khoảng đất đó, trang chủ Vạn Trúc sơn trang đã huy động tráng đinh dựng một tòa đài rất cao.

Ban giám sát được tuyển chọn, là bảy người, thì sáu người đã có mặt tại đài, trừ một Vân Mộng đại hiệp Vạn Tử Lương vắng mặt.

Quanh đài có những hàng ghế đặt sẵn cho hào kiệt bốn phương có chỗ ngồi quan chiến.

Nhưng số ghế đó bất quá được đặt ra để tượng trưng cho cái lệ của khách giang hồ đối với khách giang hồ chứ có đủ vào đâu với số người đứng như cây rừng, như sóng biển? Vả lại, có ai ngồi được khi xem những cuộc chiến ly kỳ?

Rất có thể họ buông lòng theo sôi động tại đấu trường, rồi họ gào nhảy nhót, múa may tung chân thì như vậy họ ngồi yên một chỗ làm sao được?

Bảy vị cao thủ được chọn vào ban giám sát không hẳn họ là những bậc cao minh, bởi trong quần hùng có nhiều người cao siêu hơn họ.

Song họ đã được chọn rồi thì lời phán định của họ là thước ngọc, khuôn vàng chẳng ai dám tranh luận.

Bởi họ cầm cán cân công đạo mà!

Và vì cái thân phận tạm thời đó quá quan trọng, họ đều tỏ lộ một dáng vẻ nghiêm trang, cái nghiêm trang của hạng người tự xem mình cầm vận mạng võ lâm…

Nếu chẳng có gì mỉa mai thì hiện tại, có thể ví sự nghiêm trang đó như vẻ trịnh trọng của phường tuồng trên sân khấu.

Sau khi nghe đọc thông cáo rồi bọn Khoái Mã Âm Đao Ngô Đông Lân, Tiểu Hoa Thương Mã Thúc Truyền, Vô Tình Công Tử Tưởng Tiếu Dân, Tế Thành đại hiệp Phan Tế Thành cùng chạy bay đến tòa dài trình diện với ban giám sát.

Thái dương đã hoàn toàn khuất dạng nơi trời tây. Mảnh trăng thu đã ló mình nơi phương đông.

Trăng tuy sáng, song trong cảnh nhá nhem giữa khoảng đêm liền ngày này chưa xóa tan vẻ mông lung khắp cảnh vật.

Xa xa còn vài đợt khói lam chiều, chưa tan biến hẳn vươn lên không gian.

Trăng dù sáng, cũng chẳng soi rõ đấu trường mà đây là một cuộc tài, cần phải nhìn từng đấu thủ theo dõi từng chiêu thức chứ chẳng phải là một cuộc thanh toán bắt nguồn từ ân oán tình thù nên phải dùng đến ánh sáng nhân tạo.

Do đó phải có đèn, và phải là loại đèn đặc biệt, có ánh sáng huy hoàng và không sợ gió dù là gió bão.

Trang chủ Vạn Trúc sơn trang đã nghĩ đến điều đó trước, nên đêm vừa xuống bọn tráng đinh đã mang đèn đến nơi, giăng mắc mọi nơi.

Sân trường sáng rực như ban ngày.

Đèn vừa sáng, quần hùng không hẹn mà đồng cùng hồi hộp. Bởi họ hồi hộp nên chẳng ai gây tiếng động, chừng như họ dồn nén đến cả hơi thở. Thật khó mà gặt hái được một nụ cười giữa rừng người trên đỉnh Thái Sơn đêm nay.

Quanh đài trường xa cũng như gần tìm chỗ đặt chân cũng hẳn khó khăn vô tưởng.

Trên đài, Đinh lão phu nhân với giọng từ hòa thốt :

– Trường Bạch Ngô Đông Lân và Thúc Thanh Phan Tế Thành gặp nhau trong vòng loại đầu. Già mong hai vị giữ đúng tinh thần thượng võ, lấy thật tài mà phân định hơn kém. Đừng dùng thủ đoạn mờ ám, và khi thủ thắng rồi tránh gây thương tổn cho bằng hữu!

Thế là đại hội bắt đầu với cuộc chiến giữa Ngô Đông Lân và Phan Tế Thành.

Giờ đây chẳng còn ai nghĩ đến Phương Bửu Ngọc nữa, chẳng còn ai cần biết chàng ở phương trời nào?

Không chàng, tự nhiên đại hội vẫn phải khai diễn đúng với sở ước của mọi người, đúng với kế hoạch của một người…

Phương Bửu Ngọc hiện giờ ở đâu?

Chàng có nằm vĩnh viễn nơi lòng huyệt do Vạn lão phu nhân đã đào sẵn trong khu rừng hoa tại Khoái Tụ viện chăng?

Giờ đây, chàng đang ở chân núi.

Chàng cũng đến Thái Sơn như mọi người, nghĩa là chàng chưa chết.

* * * * *

Chàng bồi hồi nơi chân núi, nhìn lên đỉnh phân vân…

Bước lên hai bước, ba bước rồi dừng lại, dừng lại rồi lại muốn trở xuống. Chàng bước xuống dốc do dự một chút, lại bước trở lên.

Chàng không dám lên đỉnh.

Chàng không còn một điểm dũng khí nào làm động cơ thúc đẩy chàng lên núi.

Y phục của chàng lam lũ quá, tóc chàng rối bồng lên, thần sắc tiều tụy phi thường.

Những vệt bùn tô điểm thêm cho phong độ của chàng càng xơ xác.

Đôi mắt cũng mất đi vẻ tinh anh ngày nào, giờ đây thì lờ đờ, thờ thẫn.

Chàng đến được nơi đây là chàng còn sống, chàng chẳng có việc gì.

Ngờ đâu chàng còn sống?

Thì ra trong lúc hoàng hôn, chàng đưa Tiểu công chúa đến Thiên Hương Trà Lâm, sau đó gặp lại Tiểu công chúa, được Công chúa cho chàng uống chén trà có độc.

Uống xong chén trà, chàng biết ngay là có độc mà cũng quái lạ làm sao, uống xong chén trà chàng cảm thấy nội lực tăng cường, chàng vận dụng nội lực đó dồn chất độc xuống dưới đan điền, trong lúc khẩn cấp, chàng chẳng làm sao hóa giải độc tố, đành dồn nội lực đó làm bức rào ngăn chận chất độc phát tác.

Bởi nội lực còn dồn quanh đan điền, chàng không dám tán khai ra do đó chàng tưởng chừng là mình bị tán thất nội lực.

Dù tán thất hay không tán thất, chàng mất cả nội lực đó, trở thành bất lực, cho nên lúc nghinh chiến với Lãnh Băng Ngư, chàng hoàn toàn bất lực, sau đó nghinh chiến với Vạn lão phu nhân chàng cũng lâm vào trường hợp đó.

Nội lực dồn xuống độc tố bốc lên, thỉnh thoảng chàng nghe đau vô cùng.

Đến Khoái Tụ Viên, chàng cảm thấy nội lực của chàng như kết tinh lại, bao bọc độc tố.

Vì sự kết.tinh đó, chàng thấy mình bất lực hơn lúc nào hết.

Mãi sau khi cuộc đấu hờ với Vạn lão phu nhân, chàng bị bà ta dụ dẫn đến khu rừng hoa, dùng trượng điểm huyệt chàng quyết hạ sát chàng luôn. Ngờ đâu những nơi đầu trượng điểm vào, tuy là tử huyệt lại là những nơi kết tinh nội lực của chàng.

Đầu trượng điểm vào khối nội lực tan vỡ, bốc bừng lên, thoát đi.

Sức thoát đi rất mạnh đẩy đầu trượng bật trở lại, Vạn lão phu nhân phải bị chấn dội.

Nội lực còn mạnh tung luôn Phương Bửu Ngọc đến lỗ huyệt.

Qua một lúc, chàng tỉnh lại lúc đó độc tố đã phát tác mạnh, chàng nghe toàn thân nóng như đang nằm giữa lò lửa.

May thay cơn mưa to đổ xuống hóa giải nhiệt độ, nhờ thế chàng mới khỏe khoắn trong người.

Tuy nhiên chất độc vẫn còn trong người, chàng chưa cử động được phải nằm tại đó.

Nhờ thế chàng nghe được điều bí mật của Ngụy Bất Tham cũng như sự thỏa thuận giữa Lãnh Băng Ngư và người nào đó.

Mãi đến mấy hôm sau chất độc mới tiêu tan và chàng bắt đầu cử động được.

Nằm nơi lỗ huyệt, suốt mấy ngày đêm, thân vùi trong đất chỉ có cái mặt là được ló ra ngoài thở được, song thiếu cái ăn cái uống, chàng mệt lả người.

Chàng chờ đêm xuống mới ra khỏi lỗ huyệt. Cũng may quần hùng cũng kéo nhau đi Thái Sơn cả rồi, Khoái Tụ Viên vắng lặng như cảnh chết, chàng thoát đi dễ dàng.

Dĩ nhiên chàng đi đến Thái Sơn.

Sau mấy ngày khổ sở trong lỗ huyệt, chàng nguội lạnh tất cả sự đời. Đến Thái Sơn, chàng cũng chẳng biết tại sao chàng đến, bất quá do một tiềm thức nào đó, thúc đẩy chàng mà thôi chứ chẳng phải chàng định đến đó.

Bởi đến làm chi khi dũng khí tiêu tan?

Dọc đường chỉ khi nào cần cái ăn cái uống, chàng mới vào quán, mua chác còn ra thì chàng cứ lầm lũi đi.

Nơi chỗ chàng đi tới đi lui dưới chân núi, cảnh vật vô cùng tịch mịch.

Chàng bồi hồi một lúc bỗng nghe tiếng rên ư ư? đâu đây.

Chàng giật mình dừng chân đảo mắt nhìn quanh chợt thấy một bóng người trong bụi cỏ.

Người đó đang cựa quậy, đang rên, giọng rên nghe yếu quá.

Chừng như người đó đã thấy chàng trước khi chàng trông thấy y, nên cố cựa quậy, cố lết về phía chàng.

Đồng thời y gọi, tiếng gọi rất khẽ :

– Các hạ… nước… cầu xin các hạ… cho miếng nước uống!…

Giọng nói của con người có biến đổi ít nhiều khi quá khổ, quá đau, song Phương Bửu Ngọc nhận ra ngay người có thinh âm đó.

Chàng sững sờ.

Nhưng qua phút giây chấn động, chàng sôi giận buột miệng hỏi :

– Ngươi… ngươi là Ngụy…

Người đó cố ngẩng mặt nhìn lên, thoạt đầu không nhận ra chàng trong phong độ tiều tụy nhưng nhìn kỹ một phút, y mới nhận ra chàng.

Y kinh hãi hay mừng rỡ?

Điều đó chỉ có mỗi một mình y biết, và dù sao thì y cũng phải lộ vẻ mừng rỡ ra mặt kêu lên :

– Bửu Ngọc!…. Ngươi!… mau mau lại đây!…. Cứu thúc thúc! Mau…

Phương Bửu Ngọc không kìm hãm nổi nguồn lòng, hét lên :

– Cứu ngươi? Ngươi nhẫn tâm hạ độc thủ sát hại Dương thất thúc, ngươi con toan sát hại luôn những vị thúc thúc kia, ngươi… ngươi… Ta hận không thể phân thây ngươi làm vạn đoạn. Cứu ngươi? Hừ!

Ngụy Bất Tham thun người lại như con cuốn chiếu.

Y thầm nghĩ, hành động của y vô cùng kỳ bí, tại sao Phương Bửu Ngọc lại biết được? Y sợ hãi phi thường, tưởng chừng y vừa gặp quỷ.

Y buột miệng hỏi :

– Sao ngươi biết?

Hỏi như thế có khác nào công nhận lời buộc tội của chàng.

Biết là mình lỡ lời, y run run giọng, chữa :

– Ta chẳng hề…

Phương Bửu Ngọc bước tới nắm áo y giở hổng lên cao giọng thốt :

– Định lừa ta phải không? Cho ngươi hay chính mắt ta trông thấy rõ ràng, ngươi đừng hòng chối tội. Cho ngươi biết luôn, lúc ngươi động thủ ta đang nằm dưới chân ngươi!

Chàng gằn từng tiếng lập lại :

– Ta nằm ngay trong lòng đất, bên chỗ ngươi đứng!

Ngụy Bất Tham hoảng quá kêu lên :

– Quỷ! Ngươi đã thành quỷ?

Phương Bửu Ngọc cười thảm :

– Phải đấy. Ta là quỷ, ta thay thế Dương thúc thúc hiện lên đòi ngươi đền mạng…

Ngụy Bất Tham rú thảm :

– Tha cho ta… Tha cho ta, ta bị người lừa, ngươi xem hiện tại ta ra thân thế này…

Phương Bửu Ngọc trầm giọng :

– Ta đang muốn hỏi ngươi tại sao bỗng nhiên ngươi biến đổi tâm tính như thế? Ngươi táng tận lương tâm như thế được à? Đã có cái tâm ác độc như vậy sao ngươi còn bị người khác làm nên nông nổi này? Cái tâm độc ác để đâu sao chẳng mang ra ứng phó?

Ngụy Bất Tham nhếch nụ cười thê thảm vô cùng.

Nơi khóe mất mấy hạt lệ long lanh, toàn thân y run run.

Rồi y căm hờn thét :

– Con thỏ bắt được rồi, con chó săn phải bị giết đi. Công tác của ta đã xong ta trở thành vô dụng, còn ai để ta sống? Ta phải chết để cho sự bí mật mãi mãi được bí mật. Ta thừa hiểu như vậy, ta luôn luôn đề phòng nhưng.. ta không thoát khỏi bàn tay độc ác của chúng.

Phương Bửu Ngọc kinh hãi :

– Công tác của ngươi đã hoàn thành? Không lẽ các vị thúc thúc điều ngươi sát hại tất cả?

Ngụy Bất Tham thở dài :

– Ta đáng chết lắm… Tội ta to lớn phi thường. Ta hối hận vô cùng…

Muộn rồi! Muộn cho ta rồi, Bửu Ngọc!

Phương Bửu Ngọc kinh khiếp quá độ, niềm khích động bốc mạnh, lệ thảm trào tuôn, chàng khóc nhưng lại rít lên căm hờn :

– Ngươi tàn nhẫn! Ngươi táng tận thiên lương rồi? Ngươi phải đền mạng cho họ!

Bàn tay chàng đưa lên nhưng chàng nhận ra trong ánh mắt của Ngụy Bất Thần niềm hối hận vô biên, gương mặt thống khổ phi thường, bàn tay chàng như nhũn lại, không còn đưa lên cao hơn nữa.

Ngụy Bất Tham run run giọng tiếp :

– Giết ta đi, Bửu Ngọc! Tội ta đáng chết! Ngươi giết ta, chấm dứt đau khổ hiện tại của ta, chấm dứt mọi niềm hối hận của ta, ta có chết mới được nhẹ nhàng, thơi thới tâm hồn, ta có đền tội mới không tủi phục linh hồn. Ngươi giết ta, xác chết chứ hồn không chết, ta sẽ sống sạch sẽ hơn, sống với linh hồn với tủi hận. Giết ta đi, Bửu Ngọc!

Phương Bửu Ngọc đấm ngực giậm chân :

– Tại sao? Tại sao thúc thúc lại làm thế chứ?

Bây giờ sự thương cảm dâng lên, chàng bớt phẫn hận nhiều, không nỡ gọi Ngụy Bất Tham bằng ngươi nữa. Bởi dù sao thì họ cũng có sống qua những phút giây chí tình chí nghĩa bên cạnh nhau.

Ngụy Bất Tham trào lệ, tự mắng :

– Tại sao ta làm thế? Tại tham! Lòng tham đã giết chết thiện lương ta, ta đã phụ ơn ân sư đặt cho cái tên Bất Tham! Có ai tưởng con người mang cái tên Bất Tham lại là kẻ có lòng tham không đáy, một kẻ đem tài trai để phục vụ lòng tham. Ta chết đi chắc chẳng còn mặt mũi nào thấy người đã đào tạo ta thành tài!

Càng nói y càng thống khổ…

Phương Bửu Ngọc bỗng nhớ đến người có cái giọng rất quen thuộc, đã thương lượng với Lãnh Băng Ngư trong đêm đó, sau lại đối thoại với Ngụy Bất Tham mấy câu.

Chàng cao giọng hỏi gấp :

– Tại Khoái Tụ viện, sau khi thúc thúc sát hại Dương thúc thúc rồi có một người đến nói chuyện với thúc thúc, người đó là ai?

Ngụy Bất Tham rên nhiều hơn trước, vì cơn đau hành hạ y phải rên nhiều rồi, vì rên nhiều nên không đáp lời chàng ngay được.

Phương Bửu Ngọc nắm tay y, lắc lắc :

– Người đó là ai? Ai?

Ngụy Bất Tham đã khép đôi mí mắt, dần dần môi y khô như lửa đang đất, chừng như sắp mê man, y buông từng tiếng nhỏ qua cơn mê :

– Châu Bửu… Kim Tử… Thủy…

Phương Bửu Ngọc cố lắc mạnh vai y hơn :

– Tỉnh! Tỉnh lại! Thúc thúc, nói đi, người đó là ai?

Ngụy Bất Tham nhướng đôi mắt lên một chút nhìn chàng song đôi mắt đã lờ đờ, y phều phào :

– Là… là…

Y hớp một hơi không khí, mất đảo ngược thân hình rên lại, run run lên, cuối cùng bất động.

* * * * *

Gió thụ lạnh, trăng thu buồn.

Cái lạnh thâm trầm càng làm cao lòng người cô độc lạnh hơn.

Người buồn chi sợ cái lạnh của thu, nó thấm thía, nó len lỏi chứ không ầm ĩ, ồ ạt như cái lạnh của tiết đông.

Trăng thu có sáng hơn mọi trăng trong mười hai tháng, nhưng đêm càng về khuya, trăng càng lạnh, càng buồn, trên thế gian này chưa hẳn có ai thưởng thức trọn một đêm trăng thu dù từ cổ chí kim ai ai cũng ca ngợi trăng thu.

Tiếng rên của Ngụy Bất Tham im bặt, không gian giữa chốn hoang sơn tịch mịch trầm lặng, thỉnh thoảng cơn gió thu vờn qua phất nhẹ lá cành, tiếng xào xạc nho nhỏ vang lên, người nặng bầu tâm sự nghe như tiếng hát…

Phương Bửu Ngọc từ từ đứng lên đưa mắt nhìn thi thể của Ngụy Bất Tham lần cuối, ánh mắt của chàng dừng lại trên thi thể đó rất lâu.

Không hiểu tại sao chàng run cười lên rồi ánh mắt đờ dần vụt sáng rực lên.

Một ngọn lửa đang cháy sau ánh mắt đó.

Lửa căm hờn?…

Chàng nghiến răng ken két, cúi nhìn xuống bế chiếc xác Ngụy Bất Tham lên, bước nhanh lên đỉnh núi.

Con đường lên phía núi, hiểm trở vô cùng, nói là đường chứ thật ra dù có đường thì qua những năm tháng bỏ hoang bị cỏ mọc lan tràn, những tảng đá từ trên lăn xuống, từ hai bên lăn qua che khuất. Theo đường đó mà lên, thì đúng là một cuộc phá núi, dọn rừng gian nan vất vả vô tưởng.

Nhưng trên đời này chẳng có sự gian nan trở ngại nào làm cho Phương Bửu Ngọc chùn lòng. Khi chàng đã quyết tâm rồi chàng cũng có thể đốn tất cả trúc trên rừng để làm đường thang lên cung trời xa thẳm…

Chàng bước đi, nhanh, dài, không dừng chân, không quay đầu. Dọc theo đường, chàng tìm một cái động ẩn khuất an trí thi thể Ngụy Bất Tham.

Bỗng chàng nghe có tiếng người đâu đây.

Rồi bên ngoài có ánh lửa chớp lên.

Tiếng người có nhiều âm thinh, chân bước có nặng có nhẹ, có nhanh có chậm, chứng tỏ nhiều người đi đến chứ chẳng phải một vài người. Tiếng người nghe gần, ánh lửa thấy sáng hơn trước.

Như thế những người nào đó đang đi vào động…

Phương Bửu Ngọc nghi ngờ, cấp tốc mang thi thể Ngụy Bất Tham giấu vào một chỗ kín, tự mình cũng tìm một nơi ẩn nấp.

Lửa đã chiếu sáng lòng động rồi. Không rõ ở bên ngoài còn bao nhiêu người, chỉ có hai đại hán đưa cao mồi lửa tiến vào trong.

Họ nhìn quanh quẩn một lúc, đoạn cao giọng cùng thốt :

– Nơi đây cũng được rồi, cứ mang vào đi!

Bên ngoài có tiếng đáp vang lên, rập nhau nghe khá lớn, kế đó hơn mười đại hán từng cặp, từng cặp đi vào, mỗi cặp khiêng một cỗ quan tài. nối đuôi cả mà vào.

Họ không từ từ đặt những chiếc quan tài đó xuống nền động, trái lại họ buông hơi mạnh, quan tài chạm đá, vang lên, tiếng vang lồng lộng trong động một lúc lâu mà chưa dứt.

Các đại hán đó đưa tay vuốt mồ hôi, đẫm ướt đầu ướt mặt, một người đếm :

– Một. hai, ba, bốn, năm, sáu…

Y gật gù tiếp :

– Phải! Sáu cỗ! Đúng số rồi!

Y hầm hừ, giọng trầm xuống :

– Chết! Chết là hết, họ chết lại còn hại chúng ta mệt nhọc, phải chở quan tài đến đây sẵn sàng cho họ, lại còn mang xác họ mà giấu?

Một đại hán khác lên tiếng :

– Đừng nói gì bằng hữu ơi! Sáu kẻ này nếu bình thường trong những ngày nào khác, họ chết đi chúng ta có van cầu cũng vị tất được cái vinh hạnh phò linh cữu của họ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Đặt quan tài nơi đây cho họ yên giấc nghìn thu, chứ nào phải giấu diếm gì?

Một đại hán khác mỉm cười :

– Phải đó! Mới ngày nào đây họ vẫn còn là anh hùng hào kiệt oai chấn một phương trời, ai dám nhìn họ, ai dám đến gần họ? Song giờ đây, họ là gì? Họ chỉ là những đống xương thịt lạnh sẽ rũ tàn trong áo quan, sẽ hòa tan cùng đất. Sống là cao diệu chết là vô tri, sống là thét ra khói, khạc ra lửa, chết là cái tổ cho dòi đục, kiến rỉa. Sống được bao năm chết là vĩnh viễn? Sống là giành giật sông hồ non núi, chết là cam phận với một thước đất!

Một người nữa vừa khuyên dứt :

– Than oán làm chi gấp? Có muốn thán oán hãy đợi đến chuyến tải cuối cùng rồi tùy thích mà hằn học. Lần này chỉ có sáu chiếc quan tài thôi đấy, chỉ sợ lần kế lại phải mang hằng chục chiếc. Và chẳng hiểu ta còn phải mang bao nhiêu lượt nữa mới chấm dứt cái nhiệm vụ tang tóc này!

Người thứ ba vừa dứt câu, người thứ tư lại tiếp nối :

– Có thể như vậy lắm. Đinh lão phu nhân từng nhắc nhở các đối thủ, từng khuyến cáo họ nên trọng tinh thần thượng võ, nên xem cuộc đấu này như một dịp giao hữu giữa những người trong giới giang hồ, đừng bao giờ tàn sát lẫn nhau. Nhưng có ai nghe lời bà ấy khuyên giải đâu? Và có ai vào cuộc đấu mà chẳng đỏ ngầu đôi mắt bốc lửa hung tàn?

Vào cuộc rồi thì họ chỉ mong với một chiêu, một thức đánh chết đối tượng ngay. Càng đánh chết sớm càng tỏ ra mình lợi hại. Ta xem trong bọn đó, chỉ có một Phan Tế Thành là còn giữ được từ tâm, song chắc chi những người khác lại hòa dịu như hắn!

Lại một người nữa thở dài :

– Xem cái gã Thần Đao Mai Khiêm cũng lợi hại đấy chứ! Khảm Hộ Đao Bành Tùng nào phải tay vừa? Thế mà vừa xuất thủ là bị Mai Khiêm cho rơi đài liền. Chẳng ai trông thấy Mai Khiêm sử dụng chiêu đao như thế nào. Ta tin chắc Lãnh Băng Ngư sẽ bị Mai Khiêm cho rơi đài luôn!

Phương Bửu Ngọc nghe họ bàn tán với nhau vừa sôi máu anh hùng mà cũng vừa run mình vì chết chóc.

Chàng đã hiểu, đại hội Thái Sơn khai diễn từ lâu, chung quy đại hội cũng khai diễn.

Hiện đã có người chết rồi!

Ít nhất cũng có sáu người chết rồi. Trong khi những đại hán này mang quan tài đến đây, thì tại đấu trường có ai đã tắt thở dưới tay đối thủ chưa? Nếu có đã được bao nhiêu người tắt thở?

Chắc chắn là có người chực sẵn quanh đài trường, hốt xác cho vào quan tài, khi đủ số lại cho đài tải đến đây.

Ngọn Thái Sơn, đệ nhất danh sơn khấp mười ba tỉnh Bắc Nam toàn lãnh tổ Trung Nguyên, Thái Sơn đêm nay đẫm máu, người bốn phương đổ về để đem tấm thân hữu dụng đổi lấy một chút hư danh, hư danh về tay chưa chắc họ sẽ làm gì hữu ích cho đời, nhưng đời đã mất đi bao nhiêu anh tài hữu dụng!

Máu đã đổ trên đỉnh Thái Sơn rồi, đổ từ lâu, nơi đó ít nhất cũng đã có hơn mười cuộc đấu diễn ra, mà chàng thì vẫn còn ẩn nấp trong động sâu tăm tối.

Buồn thay cho một con người như chàng, hoài bão cái chí hùng, muốn tạo một bộ mặt mới cho võ lâm, nhưng hoàn cảnh chẳng tùy người, thành ra người phải bị tình thế chế ngự.

Đại hán cầm mồi lửa, bật cười thốt :

– Công tác của chúng ta tuy khổ nhọc thật, song bù lại vẫn có người ca ngợi chúng ta!

Một người cười nhẹ :

– Ca ngợi? Ca ngợi cái quái gì, khi chúng ta bắt buộc làm cái việc tang tóc này? Chỉ có những kẻ điên mới khen ngợi chúng ta!

Đại hán cầm mồi lửa trầm giọng đáp :

– Ngươi cứ nghĩ kỹ một chút là hiểu. Hiện tại trên đỉnh Thái Sơn có bao nhiêu người? Họ muốn ra chẳng ra được, họ muốn vào chẳng vào được, tiến thoái lưỡng nan, ngoài ra còn một số lớn chẳng đến gần đài trường để xem đao kiếm giết người. Họ dù là đại anh hùng, đại hào kiệt, họ đứng đâu, ở đâu đấy chẳng nhích dộng được. Còn chúng ta ra bằng thích, vào bằng thích, nơi nào chúng ta đi ngang qua là nơi đó phải nhường lối, có phải chúng ta oai phong lẫm lẫm khí thế đường đường chăng? Quần hùng còn kém chúng ta là thế sao chúng ta thán oán? Sao chúng ta không hãnh diện mà lại thán oán? Thôi đi đừng được mười rồi đòi trăm, được trăm lại đòi ngàn. Cứ đi đi lên gặp xem một lúc nào họ chết đủ số chúng ta lại mang đến đây!

Tất cả cùng cười vang, rồi tất cả kéo nhau ra khỏi động.

Phương Bửu Ngọc nhanh như chớp từ trong bóng tối vọt ra điểm vào ba huyệt đạo trên mình người đi sau cùng.

Đại hán đó không kêu lên được một tiếng nào ngã ngay tại chỗ.

Phương Bửu Ngọc đã hờm tay đỡ hắn, giữ cho thân hắn khỏi rơi xuống đất, gây tiếng động, chàng cấp tốc lột y phục của hắn, đổi y phục của chàng.

Làm cái việc đó chàng phải hết sức nhanh tay để còn theo kịp các đại hán kia.

Toàn bọn chẳng một ai hay biết, chúng vừa đi vừa cười vừa nói như thường.

Thay đổi y phục xong, Phương Bửu Ngọc mang đại hán đó giấu vào một chỗ kín đáo, thoáng nhìn qua thi thể Ngụy Bất Tham thở dài lẩm bẩm :

– Thúc thúc đã làm nên tội lớn, chết là phải. Tuy nhiên lúc sắp chết còn biết ăn năn, hối hận, có lẽ trời cao cũng tha tội cho thúc thúc mà oan hồn của các vị thúc bá kia cũng lượng xét thúc thúc, chẳng còn ngậm hờn nữa. Thôi, cứ yên giấc ngàn thu, nếu sau này còn được trở lên dương thế, xin thúc thúc đừng giẫm vào vết xe cũ.

Chàng chưa vội chạy theo bọn đại hán kia, nhìn qua các cỗ quan tài một lượt, đoạn tiếp :

– Thúc thúc nằm đây có biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt bầu bạn với thúc thúc. Kể ra cũng chẳng nỗi đến đỗi nào tịch mịch. Thúc thúc hẳn cũng thư thái chứ?

Chàng cắn răng, khép nhanh mí mắt nghiến nát hai hạt lệ vừa đọng nơi khóe, đoạn lao vút mình ra ngoài chạy theo bọn đại hán.

Không lâu lắm chàng theo kịp bọn đại hán nhập vào bọn chúng.

Và không lâu lắm, chàng nghe tiếng huyên náo từ đài trọng vọng đến, như vậy là chàng đã đến gần…

Cuối cùng chàng cũng có mặt tại đại hội Thái Sơn, âm thầm có mặt.

Chàng chưa đến tận nơi đã thầm hỏi :

– Ai đang đấu với ai? Ai đã thắng ai trong những cuộc đấu trước? Có thêm bao nhiêu người chết?

Tâm tư làm việc, chân cũng làm việc, dần dần chàng cũng đến gần đài trường hơn.

Bây giờ, chàng nghe được những tiếng hoan hô, chàng có cảm tưởng những tiếng hoan hô đó được đổi bằng máu.

Trên giang hồ, có vị anh hùng nào không thành danh bằng máu?

Có thinh danh nào không nhuộm màu máu?

Máu nhuộm hồng thinh danh, máu càng ánh ngời, thinh đanh càng đi khắp bốn phương trời. Và thành tích kiêu hùng của họ được ghi lại bằng những dòng chữ máu.

Máu thay mực viết thành văn.

Xác chết thay giấy, tiếp nhận những câu văn?

Phương Bửu Ngọc nghe tiếng hoan hô, sôi động khí hùng, nhưng nghĩ đến máu hồng của thinh danh, màu hồng của lịch sử, chàng giật mình rồi rùng mình nghe lạnh khắp thân thể. Máu nóng do khí hùng nung lên, không làm ấm được thân thể lạnh giá của chàng.

Vô hình trung chàng nắm chặt hai bàn tay. Ngón tay như ấn sâu vào da thịt.

Bọn đại hán đi trước dĩ nhiên sôi niềm khích động.

Chúng khích động vì đại hội quá náo nhiệt, vì có những cuộc đấu hào hứng mê ly chứ chúng làm gì có cái tâm hào hiệp như Phương Bửu Ngọc mà khích động đúng một chiều với chàng?

Chúng gia tăng tốc độ, bước nhanh hơn như sợ mất một màn hấp dẫn đang diễn tiến.

Bởi mơ màng với nhiều ý niệm, Phương Bửu Ngọc như cái máy bước theo bọn đại hán.

Bỗng chàng giật mình trước ánh sáng như ban ngày từ đài trường chiếu xuống.

Bên dưới ánh sáng là hằng ngàn, hằng vạn đầu người, chỉ thấy đầu người thôi, không ai thấy những phần bên dưới đầu người.

Và những chiếc đầu đó dao động như sóng bủa nhấp nhô giữa đại dương.

Bởi cuộc đấu gồm song phương, mà bên nào lại chẳng có bằng hữu, bằng hữu của mỗi bên theo diễn tiến của mỗi bên mà lo ngại mà reo hò, ít nhất tại cục trường cũng chia ra thành hai chiến tuyến cho mỗi cuộc đấu.

Không kể những người bàng quan, vô quan hệ với đấu thủ, họ hoan hô một chiêu đẹp của bên này rồi trở lại reo hò trước phản ứng tân kỳ của bên kiạ..

* * * * *

Càng đến gần đài trường, Phương Bửu Ngọc càng cúi thấp đầu chẳng dám nhìn ngang nhìn dọc.

Mắt không nhìn song chàng hướng tai về bốn phía, thu nhập mọi âm thinh, để tâm tư lọc lại chọn những gì đáng lưu ý.

Người đông như rừng như biển, nhưng trông thấy các đại hán này đều vẹt ra hai bên nhường lối.

Bọn đại hán từ tên đầu đến tên cuối nối đuôi cá lượn theo con đường nứt nẻ giữa biển người, trông như một con rắn lượn mình theo khe núi.

Qua giữa biển người đó, Phương Bửu Ngọc hít phải đủ mùi, tuy nhiên chỉ có mùi rượu là nồng nặc nhất.

Tai chàng lắng nghe lời bàn tán của họ.

Có kẻ gọi người bên cạnh :

– Ngươi xem kia, Thiên Thượng Phi Hoa Lãnh Băng Ngư cũng là tay khá đấy chứ. Hắn đã thắng hai trận liên tiếp rồi, dù sao thì sức người cũng có hạn, hắn tham công quá, chẳng trách giờ đây hắn xuất hạn từng hạt lớn như thế!

Một người khác hừ một tiếng :

– Thắng hai trận thì đã có gì oanh liệt đâu? Chứ bọn Tả Đao Mai Khiêm, Phan Tế Thành, Tiểu Hoa Thương Mã Thúc Vĩnh, Tưởng Tiếu Dân, Âu Dương Thiên Kiều, bọn này há chẳng thắng hai trận đó sao?

Một người nữa cãi :

– Nhờ vận khí của họ đến lúc đỏ chứ có gì đáng ngợi? Chỉ vì bọn Lữ Vân, Ngư Truyền Giáp, Anh Thiết Lĩnh chưa ra mặt họ chỉ gặp những tay tầm thường, tự nhiên họ tháng một vài trận, chứ có gì lạ mà phải ca tụng?

Bỗng một người thốt :

– Nhắc đến mấy người đó tôi lại nhớ Phương Bửu Ngọc!….

Y bỏ dở câu nói quay lại sừng sộ mấy đại hán khiêng quan tài :

– Các vị này đi đâu mà vội vàng thế? Nếu trong ấy không có xác chết chờ các vị thì dù cho các vị có là hoàng đế, tại hạ cũng chẳng nhường lối cho lâu!

Bọn đại hán biết lỗi, cười ve vuốt, không còn dám nghinh ngang xô người này, đẩy người nọ như trước nữa.

Phương Bửu Ngọc lúc đó mới ngẩng đầu lên thấy tại trướng có mấy đại hán đang xách những thùng nước dội rửa sân đài bởi máu đổ quá nhiều, vừa bốc mùi tanh, mà cũng trông dơ dáy quá.

Máu? Máu của ai?

Dù là máu của ai, cũng đã có một vị anh hùng táng mạng. Võ lâm đã hao hụt một phần.

Chàng nhận ra, bên tả đài có một chiếc bàn sáu bảy người ngồi sau chiếc bàn đó.

Trong số có Đinh lão phu nhân với mớ tóc bạc trong thần sắc oai nghiêm, cạnh bà là Vô Tà Đạo Trưởng với gương mặt hồng hào, cạnh đạo trưởng là Nhất Mộc đại sư thân hình gầy ốm, vẻ mặt lạnh lùng.

Một người luôn cau đôi mày, lộ vẻ niềm ưu tư, góp mặt trong ban giám định đó chính là Vạn Tử Lương…

Phương Bửu Ngọc không đám nhìn lâu nữa, sợ những người quen biết bất chợt trông thấy chàng.

Chàng đưa mắt sang bên hữu, nơi đó có một nhóm người đang ngồi ngay trên sàn đài.

Những người đó đều có vẻ hân hoan, nhìn thoáng qua Phương Bửu Ngọc biết ngay họ là những đấu thủ đã thông qua nhiều trận.

Chàng nhận dễ dàng Phan Tế Thành, Âu Dương Thiên Kiều, Mã Thúc Nguyên, Tưởng Tiếu Dân, Mai Khiêm, Lãnh Băng Ngư.

Lãnh Băng Ngư ngoại hiệu là Thiên Thượng Phi Hoa, là con người mà ai ai cũng cho rằng sẽ thắng trận cuối cùng để lãnh chức đại biểu võ lâm đáng lý ra lúc này phải dương dương tự đắc, nhưng chẳng hiểu tại sao vẻ kiêu ngạo tiêu tan, chừng như y có điều gì lo nghĩ nặng nề…

Phương Bửu Ngọc quan sát qua từng người một, thấy người nào cũng huyết khí phương cương, tinh thần sung mãn ánh mắt sáng lạ thường. Họ xứng đáng là những tay võ lâm danh hiệp.

Bên cạnh những bộ mặt quen thuộc còn có nhiều người khác Phương Bửu Ngọc chưa từng biết.

Ngồi trên dài, họ là mục tiêu của hàng ngàn hàng vạn ánh mắt, chẳng rõ biển người nhìn họ với cảm nghĩ như thế nào, chỉ thấy họ đắc ý phi thường.

Họ nghiễm nhiên trở thành trung tâm vũ trụ, bảo sao họ không hãnh diện?

Tuy nhiên nếu nhìn kỹ tất thấy người nào cũng thoáng lộ sự lo lắng, bởi họ chưa đi đến đoạn đường cùng.

Mỉa mai thay, giờ đây, họ ngồi bên nhau, song trong chốc lát đây, họ sẽ trí mạng với nhau, cái số người đó, sẽ hao hụt một nửa, số còn lại cũng sẽ hao hụt, một nửa, hao hụt để rồi cuối cũng còn lại một người, người cuối cùng đi qua bao nhiêu xác chết, xác của những người mà lúc bình thường được xem là bằng hữu. Vì chút hư danh, bằng hữu phải trải thân lót đường cho bằng hữu tiến lên?

Đó tinh thần cầu tiến của một số người trong võ lâm là thế. Họ không tiến về võ thuật, họ chỉ tiến về hư danh.

Dĩ nhiên trong số đó, cũng có Tề Tinh Thọ, chủ nhân Khoái Tụ Viên, có trang chủ Vạn Trúc sơn trang, có Âu Dương Thiên Kiều phu nhân, có cả Đinh Thị Song Kiệt hai con trai của Đinh lão phu nhân.

Một bóng hình chàng lưu ý nhất, là Ngưu Thiết Oa, hắn cũng có mặt trong số, với thân vóc to lớn phi thường, hắn như con phượng đứng giữa đàn gà, hắn đã mất hẳn nụ cười hồn nhiên thường hữu. Đôi mày của hắn chừng như cau lại quá nhiều, hiện tại dù không cau cũng vẫn nhíu.

Hắn tư tưởng đến vị đại ca của hắn chăng?…

Kim Tổ Lâm cứ uống, uống cạn chén đầy rót đầy chén cạn, uống rớt không ngừng, uống như sợ chẳng còn dịp uống nữa. Xem cái dáng của y giờ đây, người ta có cảm tưởng những ngày qua y luôn luôn say, không phút giây nào tỉnh. Bởi thế thần sắc y tiều tụy thấy rõ.

Y phải uống rất nhiều rượu chứ, để quên đi những gì đã tao ngộ trong ngày qua, quên đi tai nạn, quên đi bất hạnh…

Nhìn Kim Tổ Lâm, nhìn Ngưu Thiết Oa, bất giác Phương Bửu Ngọc nhỏ lệ.

Sau cùng chàng thấy mặt Mạc Bất Khuất và Thạch Bất Vi.

Chàng đinh ninh là cả hai đã bị Ngụy Bất Tham hãm hại rồi, bây giờ trông thấy họ còn sống chàng mừng vô tưởng.

Mạc Bất Khuất tiều tụy như người có bệnh trầm kha, thân hình ốm lại, nếu không quen lắm, chắc chẳng ai nhìn ra con người ngày nào còn là thủ lãnh bảy đại đệ tử, nghinh ngang khắp sông hồ.

Thạch Bất Vi ở bên cạnh Mạc Bất Khuất, gương mặt trầm trầm.

Bỗng, Đinh lão phu nhân cất tiếng.

Cục trường im lặng như cảnh chết, ai ai cũng nghiêng tai chờ nghe.

Bà thốt :

– Hơn hai mươi cuộc đấu đã khai diễn vừa qua không có cuộc dấu nào kéo dài được mười chiêu thức. Điều đó, thật ra trên chỗ tưởng của mọi người. Những vị chiến thắng đã tỏ ra có bản lãnh phi thường, do đó mới kết thúc nhanh chóng cuộc đấu. Già hết sức hân hoan nhận ra trong hàng thanh thiếu niên ngày nay có rất nhiều vị anh hùng xuất loại, sự kiện đó là một đại hạnh cho võ lâm.

Bà thốt lên hai tiếng hân hoan, giọng bà hơi trầm xuống, thay vì bốc hứng, bà dừng lại một chút rồi thở dài mấy tiếng, mới tiếp nối :

– Phần sơ tuyển đã qua, giai đoạn quyết liệt bắt đầu. Già ước mong các vị nên đồng tâm, lưu ý, bởi kể từ phút giây này, một người thương vong là võ lâm tổn thất một nhân tài, khó thể bổ khuyết trong một thời gian ngắn. Giả như các vị áp dụng được phương thức điểm trúng là dừng tay, đừng hạ độc thủ với nhau thì võ lâm hân hạnh lắm lắm!

Người dưới đài, ai nghe cũng tán đồng ý kiến đó, song người trên đài kia liệu họ có chịu tuân theo thước ngọc khuôn vàng đó chăng?

Họ đang làm gì, trong khi Đinh lão phu nhân thốt? Ai vuốt đao sờ kiếm, cứ vuốt đao sờ kiếm, ai trầm tư, cứ trầm tư, ai cúi đầu không hề ngẩng đầu.

Đinh lão phu nhân cứ thốt, họ cứ dửng dưng tợ hồ chẳng ai nghe, tợ hồ chẳng ai muốn nghe.

Phu nhân thở dài tiếp :

– Thời gian chẳng còn dư thừa lắm, già nói chí thành, tùy các vị nghe cùng chẳng nghe.

Với tay lấy một mảnh giấy trên bàn, bà đưa cao trước mặt đọc :

– Trận thứ nhất, hai đại hiệp Chấn Thiên Phích Lịch Hứa Trù và Ngọc Diện kiếm khách Tôn Siêu gặp nhau. Xin mời hai đại hiệp!

* * * * *

Chấn Thiên Phích Lịch Hứa Trù có thân hình khôi vĩ, khí thế oai hùng vận y phục võ sĩ bằng gấm tay cầm thanh kim bôi khảm Sơn đao, vâng một tiếng lớn bước đến sân đài.

Ngọc Diện kiếm khách Tôn Siêu mặt trắng gần như nhợt nhạt tay chân dịu, cử động như nữ nhân, tuy có đôi mày lưỡi kiếm, thần thái anh tuấn, song vẻ nhu nhược vẫn hiện lộ quá rõ ràng.

Hai người đó, một cương, một nhu, một âm một dương, đúng là khắc tinh của nhau, chừng như trời sanh ra họ để cho họ có đối tượng mà đương đầu, không có người này thì người kia chỉ là thừa.

Nhưng trong võ lâm, người ta biết rõ, họ là hai đệ huynh cộng đồng sanh tử, họ là bằng hữu với nhau, nhưng tình thân hơn ruột thịt.

Họ thượng đài.

Quần chúng động tính hiếu kỳ, ai ai cũng muốn nhìn xem một đôi bằng hữu chí thân, từng ăn thề sống chết có nhau, đêm nay, trên lôi đài sẽ đánh với nhau như thế nào.

Hứa Trù thô giọng quát :

– Tôn huynh cứ xuất chiêu!

Tôn Siêu cười nhẹ :

– Hứa huynh nương tay cho nhé!

Chân tả bước tới, kiếm đưa lên ngực, Tôn Siêu đâm tới liền.

Chiêu kiếm rất nhanh, rất độc, nhưng còn cách Hứa Trù độ thước, liền ngừng lại.

Thì ra đó là một chiêu lễ độ.

Hứa Trù hét lên một tiếng lớn, vung đao đúng chiêu thức Triều Thiên Nhất Trụ Nương, chiêu thức rất gấp, nhưng lưỡi đao chưa vào, sống đao đưa ra mũi thẳng lên không.

Đó là chiêu đáp lễ.

Cả hai nhìn nhau, cả hai cùng gật đầu, rồi cả hai cùng vung đao, kiếm vào cuộc.

Đao quang, kiếm quang chớp chớp giao chuyển, xoắn tít vào nhau, cả hai kết tinh một khối, xoay quanh đài trường.

Gió đao, gió kiếm rít lên, vùn vụt.

Mười chiêu qua rồi.

Quần hùng nhận ra, họ không quyết tâm tranh thắng, đao cũng như kiếm, xuất phát thì hùng hổ, oai mãnh phi thường, nhưng gần đến đối tượng, lại giảm ngay công lực, giảm đến bảy tám phần.

Chừng như họ có thỏa thuận với nhau, nếu cuộc bắt thăm đưa họ đối chiến với nhau, thì họ đánh vờ như vậy.

Bây giờ họ đang vung đao, múa kiếm nhưng chẳng để làm gì cho họ, mà chỉ để hội trường xem cho vui mắt.

Thật sự Tôn Siêu có sử dụng kiếm pháp bí truyền, là Lạc Anh Tân Phân Thất Thập Nhị Thức và Hứa Trù cũng thi triển đao pháp thần kỳ là Khảm Sơn đao, song chẳng có gì nguy hiểm cho nhau…

Đinh lão phu nhân từng khuyến cáo các đấu thủ điểm trúng là dừng, cả hai chưa điểm trúng, đã dừng bước.

Chiêu thức của họ hoàn toàn chẳng có công lực.

Quần hùng bắt đầu cười, có một vài người ngoảnh mặt nhìn nơi khác không muốn xem một trò biểu diễn phường tuồng.

Chỉ có Đinh lão phu nhân thì luôn luôn gật gù, vẻ tán thưởng.

Bỗng thanh kiếm từ trên vút xuống như mống bạc chúi đầu.

Thanh đao từ bên dưới vọt lên như rồng thiêng quất đuôi.

Một tiếng xoảng vang lên, thanh đao chém lên kiếm, kiếm vuột tay Tôn Siêu bay bổng lên không.

Quần hùng giật mình.

Hứa Trù cũng giật mình, mà Tôn Siêu cũng giật mình.

Trong ánh mắt của Hứa Trù, niềm hối hận hiện rõ. Hắn nào cố ý?

Hắn cũng chẳng hiểu tại sao có sự kỳ lạ như vậy. Hắn đâu có ý làm mất mặt người bằng hữu chí thân, cộng đồng sanh tử.

Tôn Siêu nhún chân, nhảy vút theo thanh kiếm.

Kiếm bay lên chạm vào sà nóc đài, cắm phập vào đó, Tôn Siêu đưa tay rút kiếm, thuận đả đảo lộn thân hình, từ bên trên lao trở lại đài trường, đồng thời vươn tay ra, đâm xèo xuống Hứa Trù.

Tôn Siêu vuột kiếm mặt đỏ bừng, đỏ vì thẹn, thẹn quá thành phẫn hận, phát xuất chiêu sát thủ quyết rửa nhục.

Hứa Trù còn sững sờ vì sự kiện xảy ra quá bất ngờ, không kịp làm một phản ứng thích nghi.

Hứa Trù rú thảm một tiếng, chấn động đấu trường, máu từ người y vọt ra, vòi cao mấy thước y ngã nhào.

Thanh kiếm của Tôn Siêu từ bên trên đâm xuống, do phía tả yết hầu của Hứa Trù xuyên thủng đến hông sườn bên hữu.

Hứng nhát kiếm đó, Hứa Trù trông mong gì sống sót nổi?

Sự kiện diễn ra trên chỗ tưởng của mọi người. Ai đang ngồi vụt đứng lên phóng cổ nhìn cho rõ. Ai đang đứng, rùng mình chẳng dám nhìn lâu, lại ngồi xuống.

Thanh kiếm vẫn còn cắm nơi yết hầu của Hứa Trù.

Hứa Trù chưa chết hẳn, thân hình còn rung rung, thanh kiếm rung theo, tua kiếm màu hồng rung theo, tua kiếm khá dài, lưỡi kiếm đâm sâu tua phủ vai, bết máu nhiễu ròng ròng.

Ngọc Diện kiếm khách Tôn Siêu lặng người như chết tại chỗ.

Gương mặt y nhợt nhạt, một gương mặt chẳng còn hạt máu nhưng áo y dù là màu xanh, vẫn ánh ngời máu đỏ của Hứa Trù bắn sang.

Biển người chìm trong tử tịch, không ai thở nổi trước diễn tiến bất ngờ.

Tiếng rên nho nhỏ của Hứa Trù vang lên rất rõ, ai đứng gần chân đài đều nghe lọt.

Hứa Trù giương đôi mất lờ đờ nhìn Tôn Siêu thều thào :

– Tôn huynh!…tiểu đệ… nào cố ý…

Y tắt thở, không dứt tròn cái ý để chứng minh tấm chân thành.

Tôn Siêu bỗng ngẩng mặt lên không cười cuồng dại :

– Hay!…Ha ha!…. chết đến… hay?…

Vẫn cười mãi, y vụt bước tới rút thanh kiếm khỏi chiếc xác của Hứa Trù, quay ngược mũi kiếm, chỉ ngay yết hầu y, vận công lực đâm thốc vào.

Một đôi bằng hữu từng thề nguyện cộng đồng canh tử, thì giờ đây họ đã giữ trọn lời thề, sanh không đồng chứ chắc chắn là phải tử đồng!….

Họ đã hiến máu cho võ lâm, họ chết đi để cho võ lâm còn tồn tại mãi với ý nghĩa kiêu hùng để tròn chủ trương tinh thần thượng võ!

Máu đã đổ, mở màn cho một phút tuyển nhân tài!

* * * * *

Cái chết của Ngọc Diện kiếm khách Tôn Siêu làm sôi động hội trường một lúc, rồi đâu đó lại im lặng như chẳng có gì xảy ra. Đúng vậy, nơi đây nào phải chỉ có cái chết của một Hứa Trù một Tôn Siêu?

Bất quá, cái chết của cả hai, ngoài chỗ tưởng tượng của mọi người nên quần hùng dao động một lúc rồi tự nhiên im lặng trở lại.

Nơi đây đã có nhiều người chết rồi và sẽ có nhiều người chết nữa, thì tại sao phải bâng khuâng về cái chết của Tôn và Hứa?

Các đại hán túc trực tại đài trường, mang nước rửa máu, đưa xác chết xuống đài.

Đinh lão phu nhân thở dài lẩm bẩm :

– Tại sao lại phải khổ? Tại sao?…

Quần hùng cũng như bà than thở :

– Tại sao? Ai bắt buộc mình phải đau khổ?

Đã nói được những lời như thế, sao họ chẳng tự hỏi tại sao họ đến đây?

Ai bắt buộc họ làm trọng tài, ai cưỡng bức họ phải vào ban giám định?

Mâu thuẫn! Cho nên kẻ ở ngoài vòng đừng bao giờ phê bình người trong cuộc.

Phương Bửu Ngọc ở trong nhóm tẩm liệm xác chết, lặng lẽ làm phần việc của chung. Nếu có một người có quyền thán trách những ai đến đây để rũ thây để rơi máu, thì người đó là Phương Bửu Ngọc, bởi chàng chống đối đại hội Thái Sơn.

Chàng chống đối rõ rệt, nên chàng hầu như thân bại danh liệt, bây giờ nhìn trước mắt cuộc diễn tiến mà chàng toan tính ngăn chận, chàng phải đau lòng hơn ai hết, thật sự đau lòng chứ không bao nhiêu người, niềm xót thương dấy lên như mây chiều rồi phút chốc lại tan theo gió…

Chàng lặng lẽ làm hai cái việc bất đắc dĩ, chẳng muốn nhìn chi cả.

Hai xác chết, không nói lên được sự bi ai của cuộc tương tàn, thì đại hội phải tiếp tục, vẫn tiếp tục để nối dài chiếc thang hiếu thắng, cho một người nào đó, vượt lên đỉnh hư danh.

Đinh lão phu nhân còn xúc động, giọng bà run run khi đọc tiếp mảnh giấy ghi tên đấu thủ :

– Trận thứ hai, giữa hai đại hiệp Cửu Liên Hoàn Tiền Khuê và Thiên Kiều Trường chủ Âu Dương Thiên Kiều? Xin mời hai đại hiệp thượng đài.

Lôi đài có một diện tích rất rộng, bên tả là bàn chủ tọa, bên hữu giành cho những người được chọn qua kỳ sơ tuyển. Khoảng giữa đài, cao hơn quanh đây, chính nơi đó là lôi đài chánh thức.

Lên lôi đài, đấu thủ có thể phi thân, mà cũng có thể bước theo chiếc thang.

* * * * *

Âu Dương Thiên Kiều đứng lên trước. Y không giở thuật khinh công, y chững chạc bước từng bước một đến chiếc thang, lên từng nấc một.

Mỗi bước đi của y, biểu dương một khí thế hùng mạnh, xứng đáng với thân phận một trường chủ đứng đầu một tông phái.

Còn Cửu Liên Hoàn Tiền Khuê trái lại, phi thân lên đài.

Thuật khinh công của họ Tiền quả đã đạt đến mức cao diệu, nhìn y thi triển thân pháp, quần hùng đều thán phục.

Dùng thuật khinh công lên đài, dĩ nhiên Tiền Khuê phải lên trước Âu Dương Thiên Kiều, y nhìn Âu Dương Thiên Kiều lên từng nấc thang một bất giác giật mình.

Y sợ hãi trước khí thế hùng mãnh của Âu Dương Thiên Kiều, điều đó kể ra cũng lạ.

Nếu quần hùng biết y sợ thì chẳng nói làm chi bởi có ai chẳng sợ khi nhận ra đối tượng có chỗ dáng sợ?

Nhưng y chẳng hiểu tại sao bỗng nhiên mình lại yếu hèn như thế.

Sợ thì còn đăng tên, tranh chiến làm chi?…


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.