Hugh Woodson chưa bao giờ là anh chàng được ngưỡng mộ nhất ở trường. Anh cũng chưa bao giờ là người đẹp trai nhất, hoặc lực lưỡng nhất. Anh chưa bao giờ là người thông minh nhất, giàu có nhất, hay ngu ngốc nhất. Anh là người, và đã là như thế trong suốt cuộc đời, được yêu thích nhất.
Mọi người thích anh. Họ luôn luôn thế. Anh cho rằng đó là vì anh thích lại tất cả mọi người. Mẹ anh thề rằng anh từ trong bụng sinh ra đã mỉm cười rồi. Bà nói điều đó thường xuyên lắm, dù Hugh ngờ rằng mẹ anh làm thế chỉ để cho cha anh một cái đầu vào cho : “Ô, Gertrude, bà biết đó chỉ là khí ga thôi mà.” (??)
Cái chưa bao giờ thất bại trong việc khiến hai người bọn họ cười khúc khích như điên.
Nhưng dù thế, dù cho tất cả những cái khả năng thích người của anh, anh dường như chưa bao giờ bị lôi cuốn quá nhiều với phái nữ. Họ yêu quý anh, tất nhiên, và thố lộ những bí mật tối tăm nhất của họ cho anh, nhưng họ luôn luôn làm vậy theo một cách khiến Hugh tin rằng anh được coi là một loại sinh vật để chòng ghẹo nhưng đáng tin cậy.
Phần tệ nhất trong tất cả những chuyện này là tất cả những phụ nữ anh biết đều tuyệt đối tin rằng cô ta biết người phụ nữ hoàn hảo dành cho anh, hoặc nếu không, vậy cô ta khá chắc rằng người phụ nữ hoàn hảo đó có thật tồn tại.
Rằng chẳng người nào nghĩ rằng Hugh đã gặp được người phụ nữ hoàn hảo đó nhưng lại chẳng nhận ra cả.
Nhưng anh vẫn luôn tiến bước, bởi chẳng có lý nào lại làm khác đi cả. Và vì anh luôn luôn tin rằng phụ nữ là những con người thông minh, anh vẫn giữ hy vọng rằng có một người phụ nữ hoàn hảo đâu đó ngoài kia.
Sau rốt thì, không ít hơn bốn tá phụ nữ từng nói vậy. Không thể nào tất cả bọn họ đều sai.
Nhưng Hugh đang gần ba mười rồi, và Cô Nàng Hoàn Hảo vẫn chưa hề lộ mặt. Hugh đang bắt đầu nghĩ rằng anh nên tự nhận lấy vấn đề vào tay anh thôi không nên bỏ mặc nó cho số phận nữa, trừ việc anh chẳng có một tý ý tưởng nào xem nên làm thế nào cả, đặc biệt khi anh vừa mới chuyển sang sống ở một góc nhỏ yên tĩnh nơi vùng đồng quê Wiltshire này, và dường như chẳng có một cô gái độc thân hợp tuổi nào sống trong giáo xứ của anh cả.
Đặc biệt nhưng đúng thế.
Có lẽ anh nên lang thang đến vùng Gloucester vào Chủ nhật tới. Có một địa điểm du lịch ở đó, và anh đã được đề nghị nên đến đó và giảng giải một hay hai bài giảng cho đến khi họ tìm được một mục sư mới. Ở đó chắc phải có ít nhất một cô nàng độc thân nào chứ.
Nhưng đây không phải là lúc nghĩ đến những chuyện như thế. Anh đang đến để dùng trà với Phu nhân Bridgerton, một lời mời mà anh vô cùng vinh hạnh được nhận. Anh vẫn đang tìm hiểu làm quen với thói quen tập tục và cách sống ở vùng, và mới chỉ mất một buổi lễ nhà thờ anh đã biết rằng Phu nhân Bridgerton rất được yêu quý và kính trọng. Cô ấy dường như cũng rất thông minh và tử tế nữa.
Anh hy vọng cô ấy thích phiếm chuyện. Anh thực sự cần một ai đó để lấp đầy cho anh những chuyện xảy ra trong vùng. Bạn không thể trông nom con chiên của bạn mà không biết những gì xảy ra trong quá khứ của họ.
Đồng thời anh cũng nghe nói rằng đầu bếp của cô ấy pha trà rất khéo. Bánh quy được đề cập đến cũng rất ngon.
“Ngài Woodson đã ở đây để gặp bà, Phu nhân Bridgerton.”
Hugh bước vào phòng khách khi ông quản gia xướng tên anh. Anh khá mừng bởi anh đã quên ăn chưa vì căn nhà có mùi thật thơm ngon và –
Và anh dường như quên hết tất cả mọi thứ.
Tại sao anh lại đến.
Hay anh là ai.
Màu sắc của bầu trời, hay mùi hương của cỏ cây.
Thật đấy, khi anh đứng đó nơi ngưỡng cửa phòng khách nhà Bridgerton, anh chỉ biết một điều, một điều duy nhất.
Người con gái đang ngồi trên ghế sô pha, người có đôi mắt tuyệt đẹp, người không phải là Phu nhân Bridgerton, là Cô Gái Hoàn Hảo.
Sophie Bridgerton biết một hay hai điều gì đó về tình yêu sét đánh. Nàng đã, xưa xửa xừa xưa, cũng từng bị đánh bởi một tia sét, đứng ngẩn với đam mê bùng cháy, niềm sung sướng như men say, và một cảm giác nhức nhối kỳ quặc lan khắp cơ thể.
Hoặc ít nhất, đó là những gì mà nàng nhớ được.
Nàng cũng đồng thời cũng nhớ trong khi mũi tên của Thần Tình Ái, trong trường hợp của nàng, bắn vô cùng chính xác, nó cũng phải mất một khoảng thời gian để nàng và Benedict có thể cùng tiến bước tới hạnh phúc mãi mãi về sau của họ. Vì vậy dù cho nàng có muốn nhảy dựng trên ghế để la lên vì sung sướng khi nàng nhìn Posy và Ngài Woodson nhìn chằm chằm vào nhau như một đôi cún tương tư, một phần khác của nàng – phần cực kỳ thực tế, sinh – nhầm – bên – chăn, tôi – có – biết – rằng – thế – giới – không – làm – từ – cầu – vồng – và – thiên – thần của nàng – vẫn cố để giữ lại sự phấn khích ấy.
Nhưng có một điều ở Sophie là, dù tuổi thơ của nàng có cực khổ đến đâu (và đa phần nó khá là cực khổ khủng khiếp), bất kể có bao nhiêu sự tàn độc và nhục mạ nàng phải đối mặt trong cuộc đời, nàng vẫn, trong trái tim nàng, cực kỳ lãng mạn đến không chữa nổi.
Điều đó đưa nàng về lại với Posy.
Đúng là Posy có đến thăm viếng nàng vài lần mỗi năm, và cũng đúng là một trong những cuộc thăm viếng ấy gần như luôn trùng hợp với thời gian mùa lễ hội gần kết thúc, nhưng Sophie có thể thêm vào một tý khẩn nài trong những lời mời gần đây của nàng. Nàng có lẽ đã hơi quá khi tả bọn trẻ lớn nhanh đến thế nào, và có một chút rằng nàng đã thực sự nói dối khi nàng nói nàng vẫn thấy hơi ốm trong người.
Nhưng trong trường hợp này, cái kết là vô cùng mỹ mãn. Ồ, đúng là Posy đã nói với nàng rằng cô ấy hoàn toàn hài lòng khi sống độc thân, nhưng Sophie chẳng tin lấy điều ấy một giây nào. Hoặc nói cho đúng hơn, Sophie tin rằng Posy có tin rằng cô ấy hoàn toàn hài lòng. Nhưng chỉ cần nhìn Posy một cái khi cô ấy cưng nựng bé William và Alexander cũng có thể biết ngay rằng cô ấy sinh ra là để làm mẹ, và thế giới sẽ tối tăm hơn nhiều nếu Posy không có một tá con cái của riêng cô ấy.
Cũng đúng rằng Sophie đã, một đến mười hai lần, cố tình giới thiệu Posy với bất kể quý ngài độc thân nào có thể tim thấy được trong thời gian cô ấy ở thăm Wiltshire, nhưng lần này….
Lần này Sophie biết.
Lần này đó là tình yêu.
“Ngài Woodson,” nàng nói, cố gắng không cười nhăn nhở như một phụ nữ điên, “liệu tôi có thể giới thiệu em gái yêu quý của tôi, Cô Posy Reiling ?”
Ngài Woodson nhìn như thể anh ta nghĩ rằng anh ta đang nói gì đó, nhưng thực sự là, anh ta đang nhìn vào Posy như thể anh ta vừa nhìn thấy Aphrodite vậy.
“Posy,” Sophie tiếp, “đây là Ngài Woodson, mục sư mới của vùng này. Ngài ấy cũng mới chuyển đến đên, ừm, ba tuần trước ?”
Anh ta đã dọn đến ở gần hai tháng rồi. Sophie biết rõ điều đó, nhưng nàng có thôi thúc muốn xem xem liệu anh ta có lắng nghe kỹ để sửa sai lại nàng không.
Anh ta chỉ gật, chẳng hề rời mắt khỏi Posy.
“Xin mời, Ngài Woodson,” Sophie lẩm nhẩm, “ngồi xuống.”
Anh ta xoay xở hiểu được những gì nàng nói và hạ người xuống một cái ghế.
“Trà chứ, Ngài Woodson ?” Sophie hỏi.
Anh ta gật.
“Posy, em pha trà được chứ ?”
Posy gật.
Sophie chờ, và rồi rõ ràng là Posy sẽ chẳng làm gì ngoài việc cười cười với Ngài Woodson, nàng gọi, “Posy.”
Posy quay sang nhìn nàng, nhưng đầu cô ấy quay chậm và không dứt được, cứ như thể có một lực hút lớn lắm chĩa vào đầu cô ấy vậy.
“Em sẽ pha trà cho Ngài Woodson chứ ?” Sophie nói, cố nhịn cười.
“Ồ, tất nhiên.” Posy quay lại với ngài mục sư, nụ cười ngông ngốc đó lại hiện lại trên mặt cô ấy. “Ngài có muốn chút trà không ?”
Bình thường thì, Sophie có lẽ đã nhắc rằng nàng đã hỏi xem Ngài Woodson có muốn dùng trà không rồi, nhưng có gì đó chẳng hề bình thường trong giây phút chạm chán này, vì vậy nàng quyết định đơn giản là ngồi im và quan sát.
“Tôi rất muốn,” Ngài Woodson nói với Posy, “Hơn tất cả mọi thứ.”
“Ngài dùng trà thế nào ?” Posy hỏi.
“Tiểu thư muốn pha thế nào cũng được.”
Ôi, bây giờ, thế này thì quá lắm rồi đấy. Không người đàn ông nào lại mù quáng đến thế khi yêu đến nỗi anh ta chẳng thể có đầu óc mà nghĩ đến trà của anh ta được. Đây là nước Anh cơ mà, vì chúa trên trời cao. Trọng điểm hơn nữa, đây là trà.
“Chúng tôi có cả sữa lẫn đường,” Sophie nói, chẳng ngăn được mình. Nàng có ý ngồi và xem, nhưng thật sự thì, ngay cả những kẻ lãng mạn không cứu chữa được nhất cũng chẳng thể im lặng hơn được nữa.
Ngài Woodson chẳng hề nghe thấy nàng.
“Cả hai thứ đó đều chẳng xuất hiện trong tách của ngài,” nàng thêm vào.
“Em có một đôi mắt đẹp tuyệt vời nhất,” anh ta nói, và giọng anh ta đầy câu hỏi, cứ như là anh ta chưa thể tin được rằng anh ta đang ở ngay đây trong phòng này, với Posy.
“Nụ cười của anh,” Posy đáp lại. “Nó thật… đáng yêu.”
Anh ta dướn người lên. “Em có thích hoa hồng không, Tiểu thư Reiling ?”
Posy gật.
“Anh nhất định phải đem cho em thật nhiều.”
Sophie từ bỏ việc cố gắng ngồi nghiêm chỉnh và cuối cùng phải phì cười. Dù sao thì, có ai trong số hai người bọn họ nhìn vào nàng đâu. “Chúng tôi có hoa hồng đấy,” nàng nói.
Không phản ứng.
“Trong vườn sau.”
Lần nữa, chẳng có gì.
“Nơi hai người có thể cùng đi dạo.”
Nó như thể có ai đó vừa chọc một gậy vào cả hai người họ.
“Ồ, chúng ta cùng đi chứ ?”
“Em rất hân hạnh.”
“Làm ơn, cho phép anh – ”
“Nắm lấy tay em.”
“Anh sẽ – ”
“Em phải – ”
Đến khi Posy và Ngài Woodson ra đến cửa, Sophie chẳng thể nào nói được xem ai đang nói cái gì. Và chẳng có một giọt trà nào vào được trong tách của Ngài Woodson cả.
Sophie chờ đúng trọn vẹn một phút, rồi phá lên cười sặc sụa, bịt tay nàng lên miệng để cố kìm lại tiếng cười dù nàng chẳng chắc tại sao nàng cần phải làm thế. Đó là một tiếng cười vui sướng trọn vẹn. Tự hào nữa, vì đã sắp xếp cả chuyện.
“Nàng đang cười vì cái gì thế ?” Đó là Benedict, lang thang bước vào trong phòng, những ngón tay chàng lấm lem màu vẽ. “A, bánh quy. Tuyệt vời. Ta đang đói muốn chết. Quên ăn lúc sáng nay.” Chàng cầm lấy cái cuối cùng và nhíu mày. “Nàng đáng ra nên để phần cho ta nhiều hơn.”
“Đó là Posy,” Sophie nói, cười nhăn. “Và Ngài Woodson. Em dự đoán một thời gian đính hôn vô vô cùng ngắn đấy.”
Mắt Benedict mở lớn. Chàng quay ra nhìn cửa, rồi đến cái cửa sổ. “Họ ở đâu ?”
“Trong sân sau. Chúng ta chẳng thể nhìn thấy họ từ đây.”
Chàng ngâm nga nhai. “Nhưng chúng ta có thể nhìn từ phòng vẽ của ta.”
Trong khoảng hai phút chẳng ai trong hai người động đậy. Nhưng chỉ hai phút thôi.
Họ chạy ào ra cửa, xô và đẩy tìm đường xuống phòng vẽ của Benedict, căn phòng nằm nhô ra ở mặt sau căn nhà, cho phép nó có được ánh sáng chiếu vào từ ba hướng khác nhau. Sophie chạy đến đó trước, dù không phải hoàn toàn bằng cách công bằng, và phát ra một tiếng hổn hển váng vất.
“Gì vậy ?” Benedict nói từ phía cửa.
“Họ đang hôn nhau !”
Chàng vội sải bước. “Họ không có.”
“Ồ, họ có đấy !”
Chàng đến bên cạnh nàng, và miệng chàng há hốc. “Chà, ta sẽ bị nguyền rủa.”
Và Sophie, người không bao giờ chửi thề, đáp lại, “Em biết. Em biết.”
“Và họ mới nhỉ gặp nhau ? Thật sao ?”
“Chàng hôn em ngay lần đầu chúng ta gặp mặt,” nàng chỉ ra.
“Chuyện đó khác.”
Sophie xoay xở để kéo sự chú ý của nàng ra khỏi cặp đôi đang hôn hít trên bãi cỏ để hỏi, “Khác thế nào ?”
Chàng nghĩ về đó trong một chốc, rồi trả lời, “Nó là tiệc hóa trang.”
“Ồ, thì ra với chàng hôn người khác là không sao cả nếu chàng không biết cô ta là ai ?”
“Thế là không công bằng, Sophie,” chàng nói, cười khúc khích khi chàng lắc đầu. “Ta có hỏi nàng, và nàng không chịu nói cho ta.”
Câu đó đủ đúng để kết thúc đoạn đối thoại đó, và rồi họ đứng đó thêm một lúc nữa, không biết xấu hổ là gì khi quan sát Posy và ngài mục sư. Hai người kia đã dừng hôn và bây giờ đang huyên thuyên nói chuyện – nhìn từ ngoài vào, một dặm một phút. Posy nói, rồi Ngài Woodson hùng hồn gật, rồi nói xen vào, và rồi cô ấy cũng xen vào khi anh ta nói, rồi anh ta nhìn như thể đang khúc khích cười, trong tất cả, rồi sau đó Posy bắt đầu nói hào hứng đến nỗi hai tay cô ấy cứ khuấy khoắng liên hồi trên đầu.
“Họ đang nói chuyện trên trời dưới biển gì thế chứ ?” Sophie băn khoăn.
“Có lẽ là tất cả những gì họ nên nói trước khi anh ta hôn cô ấy.” Benedict nhíu mày, bắt chéo tay. “Mà họ thế này bao lâu rồi ?”
“Chàng đã quan sát họ lâu như em vậy.”
“Không, ý ta là, mấy giờ thì anh ta tới ? Họ có từng nói chuyện với nhau trươc khi…” Chàng vung vẩy tay về phía cửa sổ, chỉ về cặp đôi, người trông có vẻ lại sắp hôn tiếp.
“Có, tất nhiên, nhưng..” Sophie dừng, nghĩ. Cả Posy và Ngài Woodson đều nhíu hết cả lưỡi lại trong cuộc gặp. Thực tế, nàng nhớ chẳng có đến một danh từ nào được nói ra. “Thì, không nhiều lắm, e là như thế.”
Benedict chầm chậm gật đầu. “Nàng có nghĩ ta nên ra đó không ?”
Sophie nhìn chàng, rồi ra ngoài cửa sổ, rồi nhìn lại. “Chàng có điên không ?”
Chàng nhún vai. “Giờ đây cô ấy là em gái ta, và đây là nhà ta…”
“Chàng dám !”
“Vậy là ta không nên bảo vệ danh dự của cô ấy ?”
“Đó là nụ hôn đầu tiên của cô ấy !”
Chàng nhướng một bên mày. “Và chúng ta ở đây, nhìn trộm.”
“Đó là quyền của em,” Sophie phẫn nộ nói. “Em sắp xếp tất cả mọi thứ.”
“Ồ, nàng đã, phải không ? Ta nhớ là ta mới là người gợi ý Ngài Woodson.”
“Nhưng chàng chẳng nhúng tay vào chuyện gì.”
“Đó là việc của nàng, vợ yêu.”
Sophie cân nhắc việc đáp trả, bởi giọng chàng ghét chết lên được, nhưng chàng nói có lý. Nàng có thích thú việc mai mối cho Posy, và nàng rõ ràng tuyệt đối thích thú với thành quả.
“Nàng biết đấy,” Benedict trầm ngâm mói, “một ngày nào đó chúng ta có lẽ sẽ có một đứa con gái.”
Sophie quay sang chàng. Chàng không thường nói đến chuyện này. “Chàng nói gì cơ ?”
Chàng ám chỉ về đôi chim câu trên bãi cỏ ngoài kia. “Chỉ là đây có lẽ là một cơ hội luyện tập tuyệt vời dành cho ta. Ta khá chắc là ta ước được làm một ông bố bảo vệ con gái thái quá. Ta có thể xông ra và xé anh ta thành từng mảnh vụn.
Sophie nhăn mặt. Ngài Woodson tội nghiệp sẽ chẳng có cơ hội chống đỡ.
“Thách đấu với anh ta vậy ?”
Nàng lắc đầu.
“Tốt thôi, nhưng nếu anh ta hạ cô ấy xuống mặt đất, ta sẽ can thiệp.”
“Anh ta sẽ không – Ôi chúa trên trời cao !” Sophie dướn người, mặt nàng dí chặt lên tấm kính. “Ôi chúa con.”
Và nàng còn chẳng hề che miệng khi nói một từ báng bổ nữa.
Benedict thở dài, rồi dãn dãn những ngón tay. “Ta thực sự không muốn làm đau tay mình. Ta nửa hoàn thành xong bức chân dung của nàng rồi, và nó đang rất thuận lợi.”
Sophie đặt một tay lên tay chàng, giữ chặt chàng lại dù chàng chẳng thực sự di chuyển đi đâu. “Không,” nàng thốt, “đừng –” Nàng hổn hển. “Ôi, trời ơi. Có lẽ chúng ta nên làm gì đó.”
“Họ vẫn chưa nằm ra đất đâu.”
“Benedict !”
“Bình thường thì ta sẽ nói nên gọi một linh mục đến,” chàng bình phẩm, “ngoại trừ đó dường như chính là người đã lôi chúng ta vào đống lộn xộn này ngay từ đầu.”
Sophie nuốt nước bọt. “Có lẽ chàng có thể kiếm được một tấm giấy phép kết hôn đặc biệt cho họ ? Như là quà cưới ?”
Chàng cười nhăn. “Coi như xong.”