An Offer Of A Gentleman

Chương 1



Mọi người đều biết rằng Sophie Beckett là một đứa con ngoài giá thú.

Tất cả những người hầu đều biết thế. Nhưng họ đều yêu quí Sophie bé nhỏ, họ đã luôn yêu cô bé từ ngày cô bé đặt chân đến Penwood Park, hồi đó cô bé mới ba tuổi, một cái bọc nhỏ quấn quanh trong một chiếc áo choàng quá khổ, bị bỏ lại trên ngưỡng cửa trong một tối tháng Bảy đầy mưa. Và cũng bởi họ yêu cô bé, họ làm ra vẻ cô bé là chính xác những gì mà ngài Bá tước Penwood đời thứ sáu đã nói về cô bé — một bé gái mồ côi con của một người bạn cũ. Bỏ qua thực tế rằng đôi mắt màu xanh rêu của Sophie và mái tóc sẫm vàng của cô bé hoàn toàn giống hệt ngài Bá tước. Bỏ qua thực tế rằng khuôn mặt cô bé giống một cách đáng chú ý với người mẹ đã mất của bá tước, hay nụ cười của cô bé là một bản sao chính xác với người em gái của bá tước. Không một ai muốn làm tổn thương đến cảm nhận của Sophie — hoặc mạo hiểm kế sinh nhai của mình — bằng cách chỉ ra những điều đó.

Ngài Bá tước, Quí ngài Richard Gunningworth, chưa bao giờ từng bàn luận về Sophie hay nguồn gốc của cô bé, nhưng ông ta chắc chắn phải biết cô bé là đứa con ngoài giá thú của ông ta. Không ai biết điều gì đã được viết trong bức thư mà người quản gia đã tìm ra từ túi áo của Sophie khi cô bé được phát hiện ra trong đêm mưa gió ấy; bá tước đã đốt cháy bức thư ngay sau khi đọc nó. Ông ta đã quan sát tờ giấy nhăn và cuộn lại trong ngọn lửa, rồi ra lệnh sắp xếp phòng cho Sophie ngay gần với phòng trẻ. Cô bé ở lại từ đó. Ông ta gọi cô bé là Sophia, và cô bé gọi ông ta là “ngài”, và họ chỉ gặp nhau ít lần mỗi năm, vào thời gian bá tước quay về nhà từ London, điều mà không thường xuyên xảy ra lắm.

Nhưng có lẽ điều quan trọng nhất, Sophie biết cô bé là một đứa con hoang. Cô bé không hoàn toàn chắc chắn làm sao mình biết điều đó, chỉ biết rằng cô bé biết, và có lẽ đã biết điều đó trong cả cuộc đời mình. Cô bé chỉ có một vài ký ức không rõ ràng về cuộc đời cô bé đã có trước khi đến Penwooth Park, nhưng cô bé có thể nhớ cuộc hành trình trên những toa tàu dài đằng đẵng xuyên qua Anh Quốc, và cô bé có thể nhớ bà ngoại của mình, ho, thở khò khè và trông gầy gò kinh khủng, bà nói với cô bé rằng bé sẽ đến ở với cha mình. Và nhất là, cô bé có thể nhớ mình đứng trên những bậc cửa trong cơn mưa, biết rằng bà ngoại đã giấu mình trong những bụi cây, chờ để nhìn thấy liệu Sophie có được đưa vào trong.

Ngài Bá tước đã chạm những ngón tay ngài vào cằm của đứa bé, nâng khuôn mặt cô bé lên trước ánh sáng, và trong khoảng khắc ấy cả hai người bọn họ đều biết sự thật.

Mọi người biết Sophie là một đứa con ngoài giá thú, và không ai nói về điều đó, và họ khá là hạnh phúc với sự sắp xếp này.

Cho đến khi bá tước quyết định kết hôn.

Sophie đã khá là vui vẻ khi cô bé nghe tin này. Bà trưởng quản nói rằng người quản gia nói người thư ký của bá tước nói rằng bá tước định dành nhiều thời gian ở Penwood Park vì ông ta sẽ là một người đàn ông có gia đình. Và khi mà Sophie không hề thực sự nhớ bá tước khi ông ta đi – khó có thể nhớ ai đó, người mà không hề chú ý nhiều đến cô bé ngay cả khi ông ta ở đó – cô bé nghĩ cô bé có lẽ sẽ nhớ ông ta nếu cô bé hiểu ông ta nhiều hơn, và nếu cô bé hiểu ông ta nhiều hơn, có lẽ ông ta sẽ không thường xuyên rời đi nữa. Thêm vào đó, người hầu gái trên tầng đã nói rằng bà trưởng quản nói người quản gia nhà hàng xóm đã nói rằng người vợ tương lai của bá tước đã có hai con gái, và những cô bé đó cũng chạc tuổi Sophie.

Sau bảy năm phải chơi một mình trong phòng trẻ, Sophie đã rất vui thích. Không như những đứa trẻ khác trong vùng, cô bé chưa bao giờ được mời đến những bữa tiệc và sự kiện trong vùng. Không ai thực sự bước ra và gọi cô bé là đồ con hoang — bởi làm thế tương đương với gọi ngài bá tước, người đã tuyên bố rằng Sophie thuộc sự bảo trợ của ông ra và không bao giờ nhắc lại chủ đề đó lần nữa, là một kẻ nói dối.

Nhưng cùng lúc đó, bá tước chưa bao giờ từng thực sự cố gắng để Sophie được chấp nhận. Vì vậy vào cái tuổi thứ mười, những người bạn thân nhất của Sophie là những người hầu trong nhà, và cha mẹ của cô bé có lẽ là ông quản gia và bà trưởng quản.

Nhưng giờ đây cô bé sẽ có những chị em gái thực sự.Oh, cô bé biết cô bé không thể gọi họ là chị em gái của cô bé. Cô bé biết cô bé sẽ được giới thiệu như Sophia Maria Beckett, đứa trẻ thuộc sự bảo trợ của bá tước, nhưng họ sẽ có cảm tình giống như chị em vậy. Và điều đó mới là điều quan trọng.

Và vì vậy, trong một chiều tháng Hai, Sophie thấy bản thân đang đợi ở trong sảnh lớn cùng với những người hầu khác, quan sát qua cửa sổ chiếc xe ngựa của bá tước tiến vào, chở trong nó là nữ bá tước mới và hai người con gái của bà. Và, tất nhiên, cả bá tước nữa.

“Bác có nghĩ bà ấy sẽ thích con không ?” Sophie thì thầm với bà Gibbons, bà trưởng quản. “Ý con là vợ của bá tước ấy.”

“Tất nhiên bà ấy sẽ thích con, cưng à”, bà Gibbons thì thầm lại. Nhưng mắt bà thì lại không được chắc chắn như giọng bà. Bà bá tước mới có lẽ sẽ không thích sự bất ngờ của chồng.

“Và con sẽ học chung với những người con gái của bà ấy ?”

“Không có lý do gì để các con phải học riêng cả.”

Sophie trầm ngâm gật đầu, rồi bắt đầu thấy lúng túng khi cô bé nhìn thấy chiếc xe ngựa. “Họ đến rồi !” cô bé thì thào.

Bà Gibbons vươn tay định vỗ nhẹ vào đầu cô bé, nhưng Sophie thì đã lao tới cửa sổ, gần như ấn mặt cô bé vào lớp kính.

Bá tước bước ra trước, rồi vươn tay và giúp hai cô bé gái xuống. Hai cô bé mặc hai chiếc áo khoác đen đồng bộ. Một cô bé buộc giải ruy băng hồng trên tóc, cô bé kia buộc giải màu vàng. Rồi khi hai cô bé bước sang bên, bá tước lại vươn tay để giúp người cuối cùng ra khỏi chiếc xe ngựa.

Sophie nín thở khi cô bé chờ đợi nữ bá tước mới hiện ra. Những ngón tay cô bé đan lại và một tiếng “làm ơn” thoát khỏi môi cô bé.

Làm ơn để bà ấy yêu quí con.

Có lẽ nếu bà bá tước yêu quí cô bé, thì bá tước cũng sẽ yêu cô bé nữa, và có lẽ, ngay cả khi ông không thực sự gọi cô bé là con gái, thì ông cũng sẽ đối xử với cô bé như một người cha đối với con gái mình, và họ sẽ là một gia đình thực sự.

Khi Sophie nhìn qua cửa sổ, bà bá tước mới bước xuống khỏi xe ngựa, mọi chuyển động của bà đều thật thanh nhã đến nỗi làm Sophie nhớ đến một chú chim chiền chiện xinh đẹp vẫn thường bay đến bể nước dành cho những chú chim xinh đẹp trong vườn. Ngay cả chiếc mũ của bà bá tước cũng được trang trí với một sợi lông vũ dài, chùm lông vũ màu ngọc lam ấy rực rỡ trong bóng nắng mùa đông.

“Bà ấy thật xinh đẹp”, Sophie thì thầm. Cô bé liếc nhìn thật nhanh vào bà Gibbons để đo lường phản ứng của bà, nhưng bà trưởng quản đang đứng nghiêm, mắt bà hướng thẳng, chờ ngài bá tước đưa gia đình mới của ông vào trong để giới thiệu.

Sophie nuốt vào, không thực sự chắc chắn mình nên đứng ở đâu. Mọi người khác dường như đều có nơi đứng riêng. Những người hầu đứng sắp thành hàng theo thứ tự, từ ngài quản gia cho đến người rửa chén bát. Ngay cả lũ chó cũng đang ngồi yên trong một góc, chúng được giữ yên bởi Người huấn luyện Chó săn.

Nhưng Sophie lại không có nơi chốn của mình. Nếu cô bé thực sự là con gái trong gia đình, cô bé sẽ đứng cạnh cô gia sư của mình, chờ đợi nữ bá tước mới. Nếu cô bé thực sự là đứa trẻ thuộc bảo trợ của bá tước, cô bé cũng ở cùng vị trí đó. Nhưng Cô Timmons đã bị cảm và từ chối rời phòng trẻ và xuống dưới nhà. Không một người hầu nào tin rằng cô gia sư đó thực sự ốm. Tối hôm trước cô ta vẫn khỏe mạnh như thường, nhưng không ai đổ lỗi cho sự dối trá đó. Sophie, cuối cùng thì, cũng chỉ là đứa con hoang của bá tước, và không ai muốn là người nhận lấy trách nhiệm đưa ra lời lăng mạ ngầm cho bà bá tước mới bằng cách giới thiệu bà ấy với đứa con hoang của chồng.

Và bà bá tước buộc phải bị đui mù, ngu dốt, hoặc cả hai nếu không nhận ra ngay lập tức rằng Sophie là cái gì đó còn hơn là đứa trẻ được bảo hộ bởi bá tước.

Đột nhiên quá mức ngượng ngùng, Sophie rút lại trong một góc khi hai người giữ cửa mở rộng cửa trước. Hai cô bé bước vào trước, rồi đứng sang bên khi ngài bá tước dẫn bà bá tước vào. Ngài bá tước giới thiệu nữ bá tước và con gái bà với người quản gia, và người quản gia giới thiệu họ với những người hầu.

Và Sophie chờ.

Người quản gia giới thiệu những người hầu nam, đầu bếp, bà trưởng quản, những người giữ ngựa.

Và Sophie chờ.

Ông ta giới thiệu những người hầu bếp, những người hầu gái.

Và Sophie chờ.

Rồi cuối cùng khi người quản gia – tên ông ta là Rumsey — giới thiệu người cho chức vụ thấp nhất trong những người hầu gái , một cô gái rửa chén đĩa tên Dulcie người mới được thuê khoảng một tuần trước. Ngài bá tước gật đầu và lẩm nhẩm lời cảm ơn của ông, và Sophie vẫn chờ đợi, hoàn toàn không biết nên làm gì.

Rồi cô bé hắng giọng và bước lên phía trước, một nụ cười ngượng nghịu nở trên môi. Cô bé không được dành nhiều thời gian với bá tước, nhưng cô bé đã luôn lon ton quanh ông mỗi khi ông về thăm Penwood Park, và ông luôn dành cho cô bé vài phút, hỏi cô bé về những bài học trước khi đẩy cô bé về lại phòng trẻ.

Chắc chắn rằng ông vẫn muốn biết việc học của cô bé diễn ra thế nào, dù cho bây giờ ông đã kết hôn. Chắc chắn rằng ông muốn biết rằng cô bé cực giỏi trong những môn khoa học hay toán số nhân, và rằng Cô Timmons đã thường tuyên bố rằng tiếng Pháp của Sophie là cực kỳ “hoàn hảo”.

Nhưng ông vẫn đang bận bịu nói gì đó với những cô con gái của bà bá tước và ông không nghe thấy cô bé. Sophie hắng giọng lần nữa, lần này to hơn, và nói “Thưa Ngài ?” trong chất giọng kẽo cọt hơn cô bé định phát ra.

Ngài bá tước quay lại. “A, Sophia”, ông lầm bầm, “Ta không nhận ra con đứng trong sảnh.”

Sophie trở nên rạng rỡ. Rút cuộc thì cũng không phải là ông lờ cô bé đi.

“Và đây là ai đây, thưa ngài ?” nữ bá tước hỏi, bước lên phía trước để nhìn rõ hơn.

“Cô bé này thuộc bảo trợ của ta”, ngài bá tước đáp lời. “Tiểu thư Sophia Beckett.”

Bà bá tước bắn cho Sophie một cái nhìn đánh giá, rồi mắt bà nheo lại.

Và nheo lại.

Và nheo lại nhiều hơn nữa.

“Em thấy rồi, thưa ngài”, bà nói.

Và mọi người trong phòng đều lập tức biết rằng bà ta thực sự thấy.

“Rosamund”, bà bá tước nói, quay về phía hai cô bé kia, “Posy, đến đây với ta nào.”

Hai cô bé ngay lập tức đến cạnh mẹ mình. Sophie đánh bạo cười với hai cô bé kia. Cô bé nhỏ hơn cười lại, nhưng đứa lớn hơn, đứa có mái tóc màu vàng rực rỡ, thừa hưởng từ mẹ mình, nghếch mũi lên trời, và quay ngoắt đi chỗ khác.

Sophie nuốt khan và mỉm cười lần nữa với cô bé thân thiện, nhưng lần này cô bé nhỏ xinh đó cắn môi dưới do dự, rồi hướng ánh nhìn lên trần nhà.

Bà bá tước quay lưng lại với Sophie và nói với ngài bá tước. “Em cho rằng ngài đã chuẩn bị sẵn phòng cho Rosamund và Posy.”

Ông gật. “Gần phòng trẻ. Ngay cạnh phòng của Sophie.”

Rồi một khoảng lặng im kéo dài, cuối cùng bà bá tước quyết định trận chiến không nên diễn ra trước mặt những người hầu, bởi tất cả những gì bà ta nói là, “Em thích được lên tầng trên ngay lập tức.”

Và bà ta rời đi, kéo theo ngài bá tước và hai cô con gái theo mình.

Sophie quan sát gia đình mới đó bước lên tầng trên, và rồi, họ biến mất sau những bức tường, cô bé quay lại hỏi bà Gibbons, “Bác có nghĩ con nên lên để giúp không ? Con có thể chỉ cho hai bạn ấy phòng trẻ.”

Bà Gibbons lắc đầu. “Hai cô bé trông đều mệt”, bà nói dối. “Bác nghĩ hai vị tiểu thư chắc chắn cần được ngủ trưa.”

Sophie cau mày. Cô bé nghe được rằng Rosamund 11 tuổi và Posy 10 tuổi. Chắc chắn rằng hai bạn ấy đã khá lớn tuổi cho việc ngủ trưa rồi chứ.

Bà Gibbons vỗ vỗ vào lưng cô bé. “Tại sao con không đi với bác ? Bác có thể cần sự giúp đỡ của con, và Cook nói với bác rằng cô ấy vừa mới làm một mẻ bánh bơ giòn mới. Bác nghĩ nó vẫn còn ấm đấy.”

Sophie gật đầu và đi theo bà quản gia ra khỏi sảnh. Cô bé sẽ có thật nhiều thời gian vào buổi tối để làm quen với hai cô bé kia. Cô bé sẽ chỉ cho họ xem phòng trẻ, và rồi họ sẽ thành bạn bè, và không lâu sau đó họ sẽ thành chị em.

Sophie mỉm cười. Sẽ thật tuyệt vời khi có chị em gái.

Chuyện xảy ra rằng Sophie không hề gặp được Rosamund và Posy – hay ngài bá tước và bà bá tước – cho đến tận ngày hôm sau. Khi Sophie bước vào phòng trẻ để ăn tối, cô bé chú ý thấy rằng bàn ăn được dọn cho hai người, chứ không phải bốn người, và Cô Timmons (người đã khỏi bệnh một cách thần kỳ) nói rằng nữ bá tước nói với cô rằng sau chuyến hành trình dài Rosamund và Posy quá mệt mỏi để có thể xuống ăn tối đó.

Nhưng những cô bé vẫn phải học, và vì vậy sáng hôm sau họ đã đến phòng trẻ, theo sát sau bà bá tước. Sophie đã ngồi học được khoảng một giờ rồi, và cô bé đang ngước nhìn lên những con số của mình với niềm hứng thú tuyệt vời. Nhưng cô bé không mỉm cười với họ lần này. Theo cách nào đó, dường như tốt nhất là không nên cười.

“Cô Timmons”, bà công tước nói.

Cô Timmons khẽ nhún chào, nói, “Lệnh bà.”

“Bá tước nói với ta rằng cô sẽ dạy dỗ các con gái ta.”

“Tôi sẽ làm hết sức mình, thưa bà.”

Bà bá tước ra hiệu cho cô chị, cô bé với mái tóc vàng rực rỡ và đôi mắt xanh mượt mà. Cô bé ấy, Sophie nghĩ, nhìn xinh xắn như bé búp bê sứ mà bá tước đã gửi từ London nhân dịp sinh nhật lần thứ bảy của Sophie.

“Đây,” bà bá tước nói, “là Rosamund. Con bé 11 tuổi. Và đây” – bà ấy ra hiệu cho cô bé kia, người mà không hề nhìn đi đâu khác ngoài đôi giày của chính mình – “là Posy. Con bé 10 tuổi.”

Sophie nhìn lên Posy đầy hứng thú. Không giống mẹ và chị, tóc và màu mắt của Posy khá sẫm, và bầu má thì khá là mập mạp.

“Sophie cũng mười tuổi” Cô Timmons đáp lời.

Môi bà bá tước mím lại. “Ta muốn cô chỉ cho mấy cô bé đường đi quanh nhà và vườn.”

Cô Timmons gật. “Vâng. Sophie, đặt phấn xuống. Chúng ta có thể quay lại với môn số học —”

“Chỉ con gái của ta thôi,” bà bá tước ngắt lời, giọng của bà ấy dường như nóng và lạnh trong cùng lúc. “Ta muốn nói chuyện riêng với Sophie.”

Sophie nuốt khan và cố nhìn lên mắt bà bá tước, nhưng cô bé chỉ dám nhìn đến cằm bà ấy thôi. Khi Cô Timmons dẫn Rosamund và Posy ra khỏi phòng thì cô bé liền đứng dậy, lùi dần xa ra khỏi người vợ mới của cha cô bé.

“Ta biết mày là ai,” bà bá tước nói ngay khi cánh cửa đóng lại.

“Th – thưa lệnh bà ?”

“Mày là đứa con hoang của ông ấy, và đừng cố thử phủ nhận điều đó.”

Sophie không dám nói gì. Đó là sự thật, tất nhiên, nhưng chưa ai từng nói lớn tiếng về điều đó. Ít nhất là trước mặt cô bé.

Bà bá tước nắm lấy cằm Sophie rồi siết và kéo cho đến khi Sophie bị buộc phải nhìn vào mắt bà ta. “Nghe đây,” bà ta nói với giọng đe dọa. “Mày có thể ở đây tại Penwood Park, và mày có thể cùng học chung với con gái ta, nhưng mày không là gì cả ngoài một đứa con hoang, và đó là tất cả những gì mày có thể đứng. Đừng có bao giờ, đừng bao giờ nhầm lẫn rằng mày ngang hàng như chúng ta.”

Sophie phát ra một tiếng rên nhỏ. Những cái móng tay của bà bá tước đang bấu chặt vào dưới cằm của cô bé.

“Chồng của ta,” bà bá tước tiếp tục, “cảm thấy một loại trách nhiệm nào đó với mày. Đó là điều đáng phục của ông ấy khi nhìn ra lỗi lầm của mình, nhưng nó là một điều sỉ nhục với ta khi có mày trong nhà ta — phải cho mày ăn, mặc, và giáo dục như thể mày là con gái thực sự của ông ấy.”

Nhưng cô bé đã là con gái thực sự của cha. Và nơi đây đã là nhà của cô bé còn lâu hơn là nhà của bà bá tước.

Đột nhiên, bà bá tước thả cằm Sophie ra. “Ta không muốn nhìn thấy mày,” bà ta nói rít lên. “Mày không bao giờ được nói chuyện với ta, và mày sẽ phải cố gắng không bao giờ được đứng bên cạnh ta. Xa hơn nữa, mày không được phép nói chuyện với Rosamund và Posy ngoại trừ trong giờ học. Hai đứa nó là con gái của nhà này, và chúng không nên giao tiếp với những đứa như mày. Có còn câu hỏi gì khác không ?”

Sophie lắc đầu.

“Tốt.”

Và như thế, bà ta rời khỏi căn phòng, bỏ lại Sophie với đôi chân lảo đảo và đôi môi run rẩy.

Và rất nhiều, rất nhiều nước mắt.

Cùng với thời gian, Sophie đã học được thêm một chút về vị trí không chắc chắn của mình trong ngôi nhà. Những người hầu luôn biết tất cả mọi thứ, và tất cả những thứ đó đều dần dần đến được tai của Sophie.

Bà bá tước, người có tên thánh là Araminta, đã khăng khăng ngay trong ngày đầu tiên rằng Sophie phải bị đưa đi khỏi ngôi nhà. Bá tước đã từ chối. Araminta không cần phải yêu thương Sophie, ông ấy đã lạnh lùng nói thế. Bà ta cũng chẳng cần phải thích cô bé. Nhưng bà ta phải ở cùng cô bé. Ông ấy đã giữ trách nhiệm với cô bé 7 năm nay, và ông cũng sẽ không định ngừng ngay lập tức.

Rosamund và Posy nhận lời gợi ý từ Araminta và đối xử với Sophie bằng thái độ thù địch và khinh khi, dù Posy rõ ràng là không hề hành hạ và ác độc như Rosamund. Rosamund không thích gì hơn là cấu và cào vào phần mu bàn tay của Sophie khi Cô Timmons không để ý. Sophie chưa bao giờ phàn nàn về bất kỳ điều gì; cô bé còn nghi ngờ việc Cô Timmons có dũng khí để quở trách Rosamund (người mà chắc chắn sẽ mách với Araminta những câu chuyện đã được bóp méo), và nếu bất kỳ ai chú ý đến việc hai bàn tay của Sophie không ngừng bị xanh tím thì họ cũng chẳng nói gì.

Posy thỉnh thoảng cũng đối xử tốt với cô bé, dù cho cô bé đó thường thở dài, và nói. “Mẹ của mình nói mình không được đối xử tốt với bạn.”

Còn về phần bá tước, ông ta không bao giờ can thiệp vào.

Cuộc sống của Sophie cứ thế trôi qua trong bốn năm, cho đến khi bá tước làm mọi người ngạc nhiên khi nắm tay mình lên ngực trong khi đang uống trà trong vườn hồng, thở hắt ra, rồi ngã đập đầu xuống sàn đá sỏi.

Ông ta không bao giờ tỉnh lại.

Tất cả mọi người đều sốc. Bá tước mới chỉ 40 tuổi. Ai có thể biết tim ông bị quị đi trong lứa tuổi trẻ như thế ? Cũng không ai choáng váng hơn Araminta, người vẫn cố gắng đến tuyệt vọng được thụ thai từ đêm tân hôn, một người thừa kế.

“Ta có thể đang mang thai !” bà ta đã vội vàng nói với cố vấn pháp luật của bá tước. “Ông không thể đưa tước vị cho một người họ hàng xa nào đó được. Ta có thể đang mang thai.”

Nhưng bà ta không hề mang thai, và khi di chúc của bá tước được đọc một tháng sau đó (người cố vấn đã muốn để bà bá tước có đủ thời gian để chắc chắn xem bà ta liệu có mang thai không) Araminta đã bị buộc phải ngồi cạnh bá tước mới, một kẻ chơi bời, người thường say nhiều hơn tỉnh.

Hầu hết mọi di nguyện của bá tước đều chuẩn mực. Ông ta để lại nguồn thu cho những người hầu trung thành. Ông ta dựng quĩ dành cho Rosamund, Posy, và ngay cả Sophie, bảo đảm rằng cả ba cô bé đều có một khoản hồi môn đáng kể.

Và khi người cố vấn đọc đến tên của Araminta.

Cho vợ ta, Araminta Gunningworth, nữ bá tước của Penwood, ta để lại một khoản lợi tức hàng năm là hai nghìn bảng —

“Chỉ có thể thôi ?” Araminta thét lên.

— trừ khi vợ ta đồng ý che chở và chăm sóc cho đứa trẻ được ta bảo trợ, Tiểu thư Sophia Maria Beckett, cho đến khi con bé hai mươi tuổi, trong trường hợp đó lợi tức hàng năm của vợ ta sẽ nhân lên gấp ba thành sáu nghìn bảng.

“Ta không muốn con bé đó,” Araminta thì thào.

“Phu nhân không cần phải chăm sóc cô bé,” vị cố vấn nhắc nhở bà ta. “Phu nhân có thể —”

“Sống chỉ với hai nghìn bảng rách rưới một năm ?” bà ta quát. “Ta không nghĩ thế.”

Vị cố vấn pháp luật, người sống với khoản tiền lương ít hơn hai nghìn bảng một năm, không nói gì thêm nữa.

Bá tước mới, người vẫn cứ uống say sưa trong suốt buổi họp, chỉ nhún vai.

Araminta đứng dậy.

“Quyết định của người là gì ?” vị cố vấn hỏi.

“Ta sẽ chứa chấp con bé.” Bà ta nói bằng giọng thấp.

“Liệu tôi có nên đi tìm và nói với cô bé ?”

Araminta lắc đầu. “Ta sẽ tự mình nói với con bé.”

Nhưng khi Araminta tìm thấy Sophie, bà ta bỏ lại một vài chi tiết quan trọng ….

Thiệp mời dạ tiệc được săn đón nhất trong năm nay chắc chắn là lời mời tham dự buổi dạ hội hóa trang do nhà Bridgerton tổ chức, vào thứ Hai tới. Thật sự, không một vị tiểu thư nào có thể bước hai bước mà không bị buộc phải nghe các vị mẫu thân ưa giao thiệp ngồi suy đoán xem ai sẽ tham dự và có lẽ điều quan trọng hơn cả, đó là ai sẽ cải trang thành gì.

Nhưng những chủ đề đã kể trên, tuy nhiên, lại không hề thú vị bằng việc hai người con trai còn độc thân của nhà Bridgerton, Benedict và Colin. (Trước khi có ai đó chỉ ra rằng còn có một người con trai nhà Bridgerton khác vẫn còn độc thân, hãy để Bổn tác giả bảo đảm với quí vị rằng cô ấy hoàn toàn biết đến sự tồn tại của Gregory Bridgerton. Vị công tử đó, tuy nhiên, mới 14 tuổi, và hơn nữa là không thích hợp với mục báo đặc biết này, bởi mục báo này thường liên quán đến những vấn đề, như những bài báo khác của Bổn tác giả thường đề cập đến, ngành giải trí bất khả xâm phạm nhất : săn – chồng.)

Mặc dù những Mr Bridgerton – đơn thuần là Mr – họ vẫn được nhắc đến như hai mối đắt giá nhất mùa lễ hội này. Một thực tế mà ai cũng biết là cả hai vị công tử đều sở hữu một gia tài đáng kể, và cũng không cần phải đòi hỏi đến một tầm nhìn hoàn hảo để biết rằng họ cũng sở hữu, thứ mà cả tám người con thần thoại của dòng họ Bridgerton đều sở hữu, vẻ đẹp chết người của nhà Bridgerton.

Liệu một vị tiểu thư nào đó có thể sử dụng phép mầu nhiệm của đêm dạ vũ hóa trang để gài bẫy được một chàng độc thân đủ phẩm giá ?

Bổn tác giả không hề định cố gắng thử ngồi suy đoán.

Phu nhân Whistledown của tờ Nhật báo Xã hội,

Ngày 31 tháng 5 năm 1815.

oOo

“Sophie ! Sophieeeeeeeeeeeeeeeee !”

Tiếng rít vang lên, đủ để làm những đồ thủy tinh vỡ vụn. Hoặc ít nhất là làm thủng màng nhĩ một ai đó.

“Đến đây, Rosamund ! Em đến đây !” Sophie giật mạnh đường viền của chiếc váy làm bằng vải len thô và vội vã chạy lên lầu, trượt trên bậc thang thứ tư và chỉ vừa đủ xoay xở để nắm lấy cái lan can trước khi hạ cánh xuống nền nhà bằng mông nàng. Đáng ra nàng phải nhớ rằng những bậc thang sẽ trơn tuột như vậy; nàng đã giúp cô hầu tầng dưới đánh sáp ong chúng vừa mới sáng nay thôi.

Trượt khập khễnh trên đường đến phòng ngủ của Rosamund và vẫn còn thở hổn hển, Sophie nói, “Vâng ?”

“Trà tao nguội rồi.”

Những gì Sophie muốn nói là, “Nó còn ấm khi tôi bưng nó lên một giờ trước, đồ quỉ lười.”

Những gì nàng thực sự nói lại là, “Em sẽ lấy cho chị ấm trà khác.”

Rosamund hít vào. “Để xem mày làm được gì.”

Sophie căng môi nàng tạo thành một cái gì đó có thể gọi là nụ cười và nhấc khay đựng trà lên. “Liệu em có nên để lại những chiếc bánh qui ?” nàng hỏi.

Rosamund lắc lắc cái đầu xinh đẹp của cô ta. “Tao muốn những cái mới.”

Bờ vai hơi trĩu xuống bởi sức nặng của khay đựng trà, Sophie thoát khỏi căn phòng, cẩn thận để không lẩm bẩm càu nhàu cho đến khi nàng an toàn ra đến hành lang. Rosamund gọi đem trà lên suốt, rồi lại không thèm uống nó cho đến khi một giờ trôi qua. Khi đó, tất nhiên, trà đã ngội, rồi nàng lại phải pha một bình trà mới.

Điều đó có nghĩa là Sophie cũng phải chạy lên chạy xuống suốt, lên và xuống, lên và xuống. Thỉnh thoảng dường như đó là tất cả những gì nàng làm trong đời.

Lên và xuống, lên và xuống.

Và tất nhiên còn những việc khâu vá, là lượt, chải tóc, đánh giày, mạng tất, trải giường … “Sophie!” Sophie quay lại và nhìn thấy Posy đang tiến về phía nàng.

“Sophie, mình muốn đến hỏi bạn, bạn có nghĩ màu này hợp với mình không ?”

Sophie đánh giá bộ trang phục người cá của Posy. Những đường cắt không hợp lắm với Posy, người vẫn chưa mất đi tất cả những đường nét bụ bẫm trẻ con, nhưng màu sắc thực sự làm tôn lên nước da của cô ấy. “Quả thật đó là một sắc lục rất đáng yêu,” Sophie đáp lại khá là thành thực. “Nó làm má bạn ửng hồng.”

“Oh, thật tốt. Mình rất vui khi bạn thích nó. Bạn thực sự có sở trường chọn lựa váy áo cho mình.” Posy mỉm cười khi cô ấy vươn tay ra và lấy một cái bánh qui đường từ chiếc khay trà. “Mẹ đã chịu đựng cả tuần nay cho buổi dạ vũ hóa trang, và mình biết mình sẽ không bao giờ được nghe kể lại toàn bộ buổi dạ tiệc nếu mình không nhìn thật tốt. Hoặc”— Mặt Posy nhăn lại — “Nếu bà nghĩ mình không nhìn thật tốt. Bà đã quyết định một trong hai đứa mình phải gài bẫy được một trong những anh em nhà Bridgerton còn lại, bạn biết đấy.”

“Mình biết.”

“Và mọi chuyện còn tồi tệ hơn, khi cái bà Whistledown đó đã lại viết về họ lần nữa. Và nó chỉ “— Posy hoàn tất việc nhai và dừng lại khi cô ấy nuốt xuống — “càng kích thích lòng thèm muốn của mẹ.”

“Có phải là bài báo mới ra sáng nay ?” Sophie hỏi, chuyển cái khay tựa vào hông nàng. “Mình còn chưa có cơ hội để đọc nó.”

“Oh, toàn những chuyện bình thường thôi,” Posy vừa nói vừa phẩy tay. “Thật sự, nó có thể khá là chán ngắt, bạn biết đấy.”

Sophie cố thử mỉm cười nhưng không làm được. Nàng chẳng muốn gì hơn việc được sống thử một ngày trong cái cuộc sống chán ngắt của Posy. Ừ thì, có lẽ nàng không muốn có một người mẹ như Araminta, nhưng nàng không ngại một cuộc sống với những bữa tiệc, những đám đông ồn ào hỗn độn, và những buổi nhạc hội.

“Để xem nào,” Posy trầm ngâm. “Có một đoạn phê bình về buổi khiêu vũ gần đây của Phu nhân Worth, một chút về Tử tước Guelph, người dường như bị mê hoặc bởi một cô nàng nào đó từ Scotland, và rồi một bài dài về buổi dạ vũ hóa trang sắp tới của nhà Bridgerton.”

Sophie thở dài. Nàng đã đọc về buổi dạ vũ hóa trang này hàng tuần nay, và dù nàng chẳng là gì ngoài một cô hầu phòng (và đôi khi là cả người hầu dọn dẹp trong nhà vào mỗi dịp Araminta quyết định rằng nàng chưa làm việc đủ chăm chỉ) nàng không thể nào ngăn mình ước rằng nàng có thể dự buổi dạ vũ đó.

“Mình sẽ run lên vì xúc động nếu cái ngài tử tước Guelph đó đính hôn luôn đi,” Posy nhận xét, với tới một cái bánh qui khác. “Nó có nghĩa là sẽ ít đi một vị còn độc thân trong cái list con rể tương lai của Mẹ. Đằng nào thì mình cũng chẳng hy vọng thu hút sự chú ý của anh ta.” Cô ấy cắn một miếng bánh qui; nó kêu răng rắc trong miệng cô ấy. “Mình hy vọng Phu nhân Whistledown nói đúng về anh ta.”

“Bà ấy có lẽ đúng,” Sophie trả lời. Nàng đã đọc Nhật báo Xã hội của Phu nhân Whistledown ngay từ buổi đầu nó được xuất bản vào năm 1813, và vị phu nhân chuyên viết những mục lượm lặt ấy đã gần như luôn đúng khi nhắc đến những vấn đề về Thị trường Hôn nhân.

Không phải, tất nhiên, rằng Sophie đã từng có cơ hội để nhìn tận mắt thấy cái Thị trường Hôn nhân ấy. Nhưng nếu một người đọc Whistledown đủ thường xuyên, thì người đó có thể gần như cảm thấy mình là một phần của Xã hội London mà không cần phải thực sự tham dự bất kỳ buổi dạ hội nào.

Thực tế, việc đọc Whistledown đã thực sự thành một việc tiêu khiển giải trí của Sophie. Nàng thực sự đã đọc hiết tất cả những cuốn tiểu thuyết ở trong thư viện, và dù là Araminta, Rosamund hay Posy đều không có niềm ham mê về việc đọc, Sophie không thể chờ được đến khi cuốn sách được nhập vào nhà.

Nhưng Whistledown là một niềm vui tuyệt vời. Không ai thực sự biết về danh tính thực của nhà báo đó. Khi tờ báo một trang ấy được phát hành lần đầu vào hai năm trước, nó đã ngay lập trở thành một đề tài xôn xao. Ngay cả bây giờ, mỗi khi Phu nhân Whistledown cho đăng một mẩu chuyện ngồi lê đôi mách, người ta vẫn bắt đầu nói và đoán, tự hỏi xem ai là người có thể đăng bài với tốc độ và sự chính xác như thế.

Và với Sophie, Whistledown là một cái nhìn thoáng trêu ngươi về một thế giới có lẽ có thể đã thuộc về nàng, nếu như cha mẹ nàng thực sự làm cho hôn nhân của họ trở nên hợp pháp. Nàng có thể đã là con gái của bá tước, chứ không phải là một đứa con hoang của bá tước; tên nàng sẽ là Gunningworth thay vì Beckett.

Chỉ một lần thôi, nàng ước mình có thể bước lên xe ngựa và tham dự vũ hội.

Thay vì thế, nàng lại là người giúp sửa soạn cho người khác để họ hưởng thụ buổi tối của họ, giúp thắt áo nịt ngực của Posy hay trang trí tóc cho Rosamund hoặc đánh bóng giày cho Araminta.

Nhưng nàng không thể — hoặc ít nhất không nên – than phiền. Nàng có lẽ phải phục vụ như một người hầu cho Araminta và con gái của bà ta, nhưng ít nhất nàng có một mái nhà. Thế đã là tốt hơn hầu hết các cô gái khác ở trong vị trí của nàng rồi.

Khi cha nàng chết, ông không để lại cho nàng cái gì cả. Well, không gì ngoài một mái che cho cái đầu của nàng. Di chúc của ông đảm bảo chắc chắn rằng nàng không bị đuổi khỏi nhà cho đến khi nàng hai mươi tuổi. Araminta sẽ chẳng bao giờ để bốn nghìn bảng một năm tuột mất bằng cách cho Sophie một đôi bốt và đuổi nàng khỏi nhà.

Nhưng bốn nghìn bản đó là của Araminta, không phải của Sophie, và Sophie chưa từng nhìn thấy dù là một penny trong số đó. Những bộ váy tốt nàng từng mặc bị thay thế bằng những đồ len thô của người hầu. Và nàng ăn những gì mà những người hầu ăn — bất kể những gì Araminta, Rosamund, và Posy chọn bỏ lại.

Ngày sinh nhật thứ hai mươi của Sophie, tuy nhiên, đã qua từ gần một năm trước, và đây nàng đây, vẫn ở lại trong dinh thự Penwood, phục dịch Araminta. Vì một lý do nào đó – có lẽ bởi bà ta không muốn huấn luyện (hoặc trả tiền) cho một người hầu mới – Araminta vẫn cho phép nàng ở lại trong ngôi nhà của bà ta.

Và Sophie đã ở lại. Nếu như Araminta là con quỉ mà nàng biết, thì phần còn lại của thế giới là con quỉ mà nàng chưa biết. Và Sophie thì không biết bên nào kinh khủng hơn.

“Cái khay đó dường như khá nặng ?”

Sophie chớp mắt, rời khỏi khúc hồi tưởng của nàng và tập trung vào Posy, người đang với tới cái bánh qui cuối cùng trên khay. Phải gió. Nàng đang hy vọng được xoáy lấy chúng cho mình. “Vâng,” nàng lầm bầm. “Vâng, nó khá nặng. Mình thực sự nên đem nó về bếp thôi.”

Posy mỉm cười. “Vậy mình sẽ không giữ bạn lại lâu hơn nữa, nhưng khi ban xong việc, bạn có thể là cái váy hồng của mình không ? Mình định mặc nó tối nay. Oh, và mình cho rằng đôi giày đồng bộ cũng nên được chuẩn bị sẵn sàng. Mình làm dính tý bùn lên nó vào lần cuối mình đi đôi đó, và bạn biết Mẹ kinh khủng đến thế nào về những đôi giày rồi đấy. Dù cho bạn thậm chí còn không thể nhìn thấy chúng dưới váy mình. Bà vẫn sẽ chú ý đến cái vết bẩn tý xíu đó ngay khi mình nâng váy lên và trèo lên những bậc thang.

Sophie gật đầu, lặng lẽ thêm những yêu cầu của Sophie vào danh sách những việc làm hàng ngày của nàng.

“Vậy mình sẽ gặp lại bạn sau nhé !” Nhai xong chiếc bánh qui cuối cùng, Posy quay đi và mất dấu đằng sau phòng ngủ của cô ấy. Còn Sophie thì lê bước về phía bếp.

Một vài ngày sau, Sophie đang quì, ghim những cái kẹp giữa hai hàm răng khi nàng sửa lại lần cuối bộ trang phục hóa trang của Araminta. Bộ váy Nữ hoàng Elizabeth, tất nhiên, được đưa đến từ nhà may đã vừa vặn lắm rồi, nhưng Araminta khăng khăn cho rằng cái eo váy rộng hơn khoảng một phần tư inch.

“Thế nào thì sao ạ ?” Sophie hỏi, nói xuyên qua hàm răng để những cái kẹp không bị rơi.

“Quá chật.”

Sophie điều chỉnh lại vài cái kẹp. “Còn thế này ?”

“Quá rộng.”

Sophie kéo ra một cái kẹp và cắm nó lại chính xác đúng vị trí cũ. “Đó. Thế là được rồi chứ ạ ?”

Araminta quay theo chiều này rồi chiều kia, rồi cuối cùng cũng tuyên bố. “Được rồi.”

Sophie mỉm cười với bản thân khi nàng đứng dậy giúp Araminta cởi chiếc váy ra.

“Ta sẽ cần nó hoàn thành trong một giờ để chúng ta đến kịp buổi dạ vũ,” Araminta nói.

“Tất nhiên rồi,” Sophie lẩm bẩm. Nàng nhận thấy dễ nhất là cứ nói “tất nhiên” trong nhưng câu đối thoại với Araminta.

“Buổi dạ vũ này rất quan trọng,” Araminta nói gay gắt.

“Rosamund phải chọn được một hôn nhân có lợi trong năm nay. Bá tước mới – ” Bà ta rùng mình với sự chán ghét; bà ta vẫn cho rằng bá tước mới là kẻ xâm phạm, mặc kệ rằng anh ta là người họ hàng nam còn sống gần nhất với ngài bá tước cũ. “Thì, hắn ta nói với ta rằng năm nay là năm cuối chúng ta có thể sử dụng Dinh thự Penwood ở London. Tên đàn ông trơ tráo. Ta là nữ bá tước, hơn tất cả, Rosamund và Posy là con gái của bá tước.”

Con kế, Sophie lặng lẽ sửa.

“Chúng ta có mọi quyền được dùng Dinh thự Penwood trong mùa lễ hội. Hắn ta định làm gì với ngồi nhà, ta sẽ chẳng bao giờ biết được.”

Có lẽ anh mong tham dự mùa lễ hội và tìm một người vợ,” Sophie gợi ý. “Anh ta sẽ muốn một người thừa kế mà.”

Araminta cau có. “Nếu Rosamund không cưới được ai đó giàu có, ta không biết chúng ta sẽ làm thế nào. Rất khó để tìm một ngôi nhà ổn thỏa để thuê. Và giá thì cũng rất đắt đỏ.”

Sophie chịu đựng cố không chỉ ra rằng ít nhất Araminta không phải trả tiền thuê một cô hầu phòng. Thực tế, cho đến khi Sophie bước sang tuổi hai mươi, bà ta đã nhận được bốn nghìn bảng mỗi năm, chỉ để có một cô hầu phòng.

Araminta bật ngón tay. “Đừng quên rằng Rosamund sẽ cần tóc được đánh phấn.”

Rosamund định hóa trang thành Marie Antoinette. Sophie đã hỏi liệu cô ta có định đặt một chiếc nhẫn máu nhân tạo quanh cổ cô ta. Rosanmund đã chẳng vui vẻ tý nào.

Araminta quàng chiếc áo khoác ngoài của bà ta vào, cột chặt chiếc đai thắt lưng với những chuyển động nhanh và sít sao. “Và Posy –” Mũi bà ta nhăn lại. “Ờ thì, Posy sẽ cần sự giúp đỡ của mày trong khá nhiều vấn đề, ta chắc đấy.”

“Con luôn vui khi được giúp Posy,” Sophie đáp lời.

Araminta nheo mắt lại khi bà ta cố thử tìm hiểu xem có phải Sophie vừa mới xấc láo không. “Để xem mày có thể làm gì,” bà ta cuối cùng nói, những âm tiết của bà ta líu lại. Bà ta oai vệ bước vào phòng tắm.

Sophie chào mừng khi cánh cửa đóng lại đằng sau nàng.

“Ah, mày đây rồi, Sophie,” Rosamund nói khi cô ta ồn ào chạy vào trong căn phòng. “Tao cần mày giúp ngay lập tức.”

“Em sợ rằng việc đó sẽ phải đợi cho đến khi ––”

“Tao nói ngay lập tức !” Rosamund quát tướng lên.

Sophie thẳng vai lên và tặng cho Rosamund một cái nhìn sắt đá. “Mẹ chị muốn em sửa lại váy của bà.”

“Cứ kéo những cái kẹp ra và nói với bà ấy mày đã kéo nó vào rồi. Bà ấy sẽ chẳng bao giờ chú ý sự khác biệt.”

Sophie đã định làm như thế, và nàng rên lên. Nếu nàng làm như Rosamund đề nghị, Rosamund sẽ ba hoa về nàng ngay ngày hôm sau, và rồi Araminta sẽ cường điệu và thịnh nộ cả tuần. Giờ đây nàng sẽ chắc chắn phải sửa lại cẩn thận.

“Chị cần gì, Rosamund ?”

“Có một chỗ rách trên đường viền trên trang phục của tao. Tao chẳng biết tại sao nó xảy ra.”

“Có lẽ khi chị cố thử mặc — ”

“Đừng có mà xấc láo !”

Sophie kẹp chặt miệng lại. Thật quá khó để nhận lệnh từ Rosamund so với Araminta, có lẽ bởi họ đã từng ngang hàng, chia sẻ cùng phòng học và gia sư.

“Nó phải được sửa lại ngay lập tức,” Rosamund khụt khịt mũi.

Sophie thở dài. “Cứ đem nó đến đây. Em sẽ sửa nó ngay sau khi em hoàn tất với cái váy của mẹ chị. Em hứa chị sẽ còn nhiều thời gian để chuẩn bị.”

“Tao sẽ không đi trễ buổi dạ vũ này,” Rosamund cảnh cáo. “Nếu tao bị trễ, tao sẽ cho đầu mày lên đĩa.”

“Chị sẽ không bị trễ.” Sophie hứa.

Rosamund tạo một âm thanh kiêu kỳ, rồi vội vã ra khỏi phòng để lấy trang phục của cô ta.

“Ốooi !”

Sophie nhìn lên và thấy Rosamund va vào Posy, người đang bước qua cánh cửa.

“Nhìn đường mày đi đi, Posy !” Rosamund quát.

“Chị cũng nên nhìn đường khi chị đi nữa,” Posy chỉ ra.

“Tao đã nhìn. Nhưng lại không thể nào tránh khỏi đường đi của mày, đồ vô dụng to béo ạ.”

Má Posy dần chuyển sang màu đỏ, và cô ấy bước sang một bên.

“Bạn cần gì sao, Posy ?” Sophie hỏi, ngay khi Rosamund biến mất.

Posy gật. “Liệu bạn có thể chìa ra chút thời gian để làm tóc cho mình tối nay ? Mình tìm thấy một vài dải ruy băng màu xanh lá trông khá giống rong biển.”

Sophie thở dài. Những sợi ruy băng màu xanh sẽ không nổi lắm giữa mái tóc sẫm màu của Posy, nhưng nàng không nhẫn tâm để chỉ ra điều đó. “Mình sẽ thử, Posy, nhưng mình sẽ phải mạng lại váy của Rosamund và sửa lại váy của mẹ bạn.”

“Oh.” Posy trông tiu nghỉu hẳn đi. Điều đó gần như làm tan vỡ trái tim của Sophie. Posy là người duy nhất đối sử tốt với nàng trong nhà của Araminta, trừ những người hầu ra. “Đừng lo mà,” nàng đoan chắc với cô bạn. “Mình sẽ đảm bảo tóc bạn trông thật đẹp dù cho chúng ta có bao nhiêu thời gian.”

“Oh, cám ơn bạn, Sophie ! Mình —”

“Mày đã bắt đầu sửa cái váy của ta chưa vậy ?” Araminta la lối khi bà ta quay trở về từ phòng tắm.

Sophie nuốt vào. “Con đang nói chuyện với Rosamund và Posy. Rosamund làm rách váy của chị ấy và ––”

“Đi làm việc đi !”

“Vâng. Ngay lập tức ạ.” Sophie ngồi phịch xuống chiếc trường kỷ và lộn trái chiếc váy để nàng có thể sửa cái eo váy. “Nhanh hơn cả ngay lập tức,” nàng lầm bầm. “Nhanh hơn cả cánh con chim ruồi. Nhanh hơn cả —”

“Mày đang nói huyên thuyên cái gì đấy ?” Araminta yêu cầu.

“Không gì ạ.”

“Được thôi, ngừng cái chuyện tầm phào của mày ngay lập tức. Ta thấy tiếng giọng mày thật chói tai.”

Sophie nghiến chặt răng lại.

“Mama,” Posy nói, “Sophie định làm tóc con tối nay như — ”

“Tất nhiên là nó sẽ làm tóc cho mày. Đừng phí thì giờ nữa và đi ép gạc lên mắt mình để chúng trong không béo phị nữa đi.”

Mặt Posy trĩu xuống. “Mắt con trông béo phị sao ?”

Sophie lắc đầu vớt vát nhỡ trong trường hợp Posy quyết định nhìn xuống nàng.

“Mắt nó luôn luôn béo phị,” Araminta đáp lại. “Con có nghĩ vậy không, Rosamund ?”

Posy và Sophie cả hai đều quay về phía cửa. Rosamund vừa mới bước vào, cầm theo bộ váy Marie Antoinette của cô ta. “Luôn luôn,” cô ta đồng ý. “Nhưng một cái gạc sẽ giúp, con chắc đấy.”

“Con trông thật lộng lẫy tối nay,” Araminta nói với Rosamund. “Và con thậm chí còn chưa hề chuẩn bị gì. Màu vàng trên váy con cực hợp với mái tóc.”

Sophie bắt một cái nhìn cảm thông về phía mái tóc sẫm màu của Posy, người chưa bao giờ từng nhận được lời khen như vậy từ mẹ mình.

“Con nhất định sẽ gài được một trong số anh em trai nhà Bridgerton,” Araminta tiếp tục. “Ta chắc chắn đấy.”

Rosamund kín đáo nhìn xuống. Nó là một biểu lộ rằng cô ta hoàn hảo, và Sophie phải công nhận rằng nó nhìn rất đẹp trên cô ta. Nhưng một lần nữa, hầu hết mọi thứ trên Rosamund nhìn đều đẹp. Mái tóc vàng rực rỡ và đôi mắt xanh của cô ta đều là mốt thịnh hành năm đó, và nhờ khoản hồi môn rộng rãi được lập cho cô ta bởi bá tước trước, cô ta được cho rằng sẽ kiếm được một mối hôn nhân rực rỡ trước khi mùa lễ hội kết thúc.

Sophie liếc lại về phía Posy, cô ấy đang nhìn chăm chú vào mẹ mình với một vẻ mặt thật buồn và đăm chiêu. “Bạn nhìn cũng rất đáng yêu mà, Posy,” Sophie hấp tấp nói.

Posy ngước mắt lên. “Bạn thực sự nghĩ vậy sao ?”

“Chắc chắn đấy. Và bộ váy của bạn thì bình thường kinh khủng. Mình chắc sẽ chẳng có cô nàng tiên cá nào khác trong buổi dạ vũ đâu.”

“Làm sao mày biết, Sophie ?” Rosamund hỏi với một tràng cười. “Nó không phải kiểu như mày đã từng ra ngoài xã hội.”

“Mình chắc chắn bạn sẽ có một khoảng thời gian tuyệt vời, Posy,” Sophie nhấn mạnh, lờ đi lời chế giễu của Rosamund. “Mình cực kỳ ghen tị đấy. Mình thực sự ước rằng mình có thể đi.”

Tiếng thở dài nho nhỏ và lời ước của Sophie gặp phải một sự im lặng tuyệt đối … theo sau đó là một tràng cười khàn khàn của cả Araminta và Rosamund. Ngay cả Posy cũng rúc rích cười một chút.

“Oh, thật vui không thể chê được,” Araminta nói, chỉ vừa đủ để thở. “Sophie bé nhỏ tại vũ hội nhà Bridgerton. Họ không cho phép những đứa con hoang thò ra ngoài xã hội đâu, mày biết đấy.”

“Con không nói con mong chờ được đi,” Sophie trả lời tự vệ, “chỉ là con ước con có thể.”

“Vậy thì, mày thậm chí còn không nên tự làm mình phiền phức bằng cách nghĩ như thế,” Rosamund chen vào. “Nếu mày ước về những gì mày không thể hy vọng đến, mày sẽ chỉ bị thất vọng thôi.”

Nhưng Sophie không hề nghe những gì cô ta nói, bởi trong khoảnh khắc ấy, chuyện kỳ quặc nhất đã xảy ra. Khi cô quay mặt về phía Rosamund, cô nhìn thấy bà trưởng quản đứng ở ô cửa. Đó là Bà Gibbons, người đã từ nhà Penwood Park ở vùng quê lên London khi bà trưởng quản của căn nhà trên phố này mất đi. Và khi mắt Sophie chạm phải mắt bà ấy, bà đã nháy mắt.

Nháy mắt !

Sophie không nghĩ rằng mình đã bao giờ từng nhìn thấy Bà Gibbons nháy mắt.

“Sophie ! Sophie ! Mày có nghe ta nói không đấy ?”

Sophie quay ánh nhìn xao lãng về phía Araminta. “Con xin lỗi,” nàng lí nhí. “Lệnh bà đang nói ?”

“Ta đang nói,” Araminta nói trong chất giọng cáu kỉnh, “rằng mày tốt nhất là nên sửa cái váy của ta nhanh đi. Nếu chúng ta bị muộn, mày sẽ phải trả lời vào ngày mai đấy.”

“Vâng, tất nhiên rồi ạ,” Sophie nhanh chóng nói. Nàng đâm cây kim vào trong lớp vải và bắt đầu khâu nhưng tâm trí nàng vẫn để chỗ Bà Gibbons.

Một cái nháy mắt ?

Sao tự nhiên bác ấy lại nháy mắt ?

Ba giờ sau, Sophie đang đứng trên bậc cửa trước của Dinh thự Penwood, nhìn đầu tiên là Araminta, rồi Rosamund, rồi đến Posy mỗi người nắm lấy tay của người giữ cửa và trèo vào trong xe ngựa. Sophie vẫy tay với Posy, người cũng vẫy lại với nàng, rồi nhìn theo chiếc xe ngựa lăn bánh trên đường và biến mất đằng sau góc đường. Chỉ có khoảng sáu tòa nhà là đến Dinh thự Bridgerton, nơi vũ hội hóa trang diễn ra, nhưng Araminta cũng sẽ khăng khăng đòi ngồi xe ngựa ngay cả khi họ sống ngay cạnh tòa nhà thôi.

Dù sao thì cũng là điều quan trọng khi tôn lên vẻ sang trọng ngay từ cổng vào.

Với một cái thở dài, Sophie quay người và bước lại trên những bậc thềm. Ít nhất thì Araminta, vì quá kích động, đã quên để lại một danh sách những nhiệm vụ phải hoàn thành trong khi bà ta đi. Một buổi tối tự do thực sự là một điều xa xỉ hiếm có. Có lẽ nàng nên đọc lại một cuốn tiểu thuyết. Hoặc có lẽ nàng có thể tìm số Whistledown ra hôm nay để đọc. Nàng nghĩ nàng đã nhìn thấy Rosamund đem nó vào phòng cô ta sớm chiều hôm nay.

Nhưng khi Sophie bước qua cửa trước của Dinh thự Penwood, Bà Gibbons xộc ra từ đâu đó và vồ lấy tay nàng. “Không có thời gian để mất đâu !” bà trưởng quản nói.

Sophie nhìn vào bà ấy như thể bà ấy đã mất trí rồi. “Bác nhắc lại đi ạ ?”

Bà Gibbons lôi mạnh khuỷu tay nàng. “Đi với bác.”

Sophie cho phép bản thân bị dẫn qua ba tầng nhà đến phòng của nàng, một buồng bé tí xíu nhét dưới mái hiên. Bà Gibbons đang xử sự thật khác thường, nhưng Sophie cũng vẫn chiều lòng bà và ngoan ngoãn đi theo bà. Bà trưởng quản đã luôn đối xử với nàng thật tử tế, ngay cả khi rất rõ ràng rằng Araminta rất phản đối.

“Con cần phải cởi đồ ra,” Bà Gibbons nói khi bà nắm lấy tay nắm cửa.

“Cái gì cơ ạ ?”

“Chúng ta thật sự phải nhanh lên.”

“Bác Gibbons, bác … ” Miệng Sophie há hốc ra, và những từ ngữ của nàng rơi rụng khi nàng nhìn thấy cảnh tượng đang diễn ra trong phòng mình. Một bồn tắm nóng nằm ngay giữa căn buồng, và có ba cô hầu đang hối hả làm việc. Một người thì đang đổ nước vào trong bồn, một người khác đang mải mở khóa một cái rương trông – vô – cùng – bí – ẩn, và người thứ ba đang cầm một cái khăn tắm và nói, “Nhanh lên ! Nhanh lên !”

Sophie quăng một cái nhìn hoang mang bối rối vào họ. “Chuyện gì đang xảy ra thế này ?”

Bà Gibbons quay người lại nhìn nàng với vẻ mặt rạng rỡ. “Con, Tiểu thư Sophie Maria Beckett, sẽ đi đến dự vũ hội hóa trang !”

* * *

Một giờ sau, Sophie được biến hổi hoàn toàn. Chiếc rường hóa ra lại cất những chiếc váy thuộc về mẹ của ngài bá tước cũ. Chúng đã lỗi thời đến 50 năm rồi, nhưng điều đó cũng chẳng là gì. Buổi vũ hội là một buổi dạ hội hóa trang; không ai mong chờ những bộ váy phải là mốt mới nhất cả.

Tại đáy rường là một tác phẩm cực kỳ đẹp và tinh tế tạo bởi những thớ vải màu bạc mở ảo lung linh, với thân váy khảm ngọc trai và tà váy bồng bềnh. Sophie cảm thấy mình như một nàng công chúa chỉ bởi việc chạm vào chiếc váy. Nó hơi mốc bởi đã nằm trong rương quá lâu, và một trong những cô hầu nhanh nhẹn mang nó ra ngoài để đánh nhẹ một chút nước hoa hồng lên vải và hong nó ra ngoài gió.

Nàng được tắm rửa và xức nước hoa, tóc nàng được bới lên, và một trong những người hầu dọn dẹp đã đem đến một nhúm phấn hồng để đánh môi nàng. “Đừng nói với Cô Rosamund nha,” cô hầu đó thì thầm. “Chị xoáy nó từ bộ sưu tập của cô ta đó.”

“Ooooh, nhìn này,” Bà Gibbons nói. “Bác tìm thấy một đôi găng tay đồng bộ.”

Sophie nhìn lên để thấy bà trưởng quản đang cầm một đôi găng dài đến khuỷu tay. “Nhìn này,” nàng nói, với lấy một chiếc găng từ chỗ bà Gibbons và xem xét nó. “Gia huy của dòng họ Penwood. Và nó được viết lồng vào. Ngay tại đường viền.”

Bà Gibbons xem xét chiếc găng tay bà vẫn giữ trên tay. “SLG. Sarah Louisa Gunningworth. Bà nội của con đấy.”

Sophie nhìn lên bà ngạc nhiên. Bà Gibbons chưa bao giờ từng nhắc đến việc bá tước là cha nàng cả. Không một ai ở Penwood Park từng công khai nhắc đến mối ràng buộc máu thịt của Sophie với gia đình Gunningwood.

“Đúng vậy mà, bà ấy là bà nội của con,” Bà Gibbons tuyên bố. “Tất cả chúng ta để nhảy nhót xung quanh vấn đề này đủ lâu rồi. Thật là một tội ác khi Rosamund và Posy được đối xử như con gái thật sự của nhà này, trong khi con, máu thịt thật sự của bá tước, lại phải chịu đựng và phục vụ như một người hầu !”

Cả ba cô hầu gật gù đồng ý. “Chỉ một lần,” Bà Gibbons nói, “dù chỉ trong một đêm, tiểu thư sẽ là hoa khôi của vũ hội.” Với một nụ cười nở trên mặt, bà chầm chậm quay người Sophie lại cho đến khi nàng nhìn vào gương. Hơi thở Sophie như ngưng lại. “Đó có thật là con không ?” Bà Gibbons gật đầu, mắt bà lấp lánh. “Con trông thật đáng yêu, con yêu quí ạ,” bà thì thầm.

Bàn tay Sophie di chuyển thật chậm lên tóc nàng. “Đừng làm rối !” một trong những cô hầu hét lên. “Em sẽ không làm rối đâu,” Sophie hứa, nụ cười của nàng run run đôi chút khi nàng cố nuốt những giọt nước mắt vào. Một chút bột phấn lấp lánh được rắc lên tóc nàng, vì thế nàng tỏa sáng như một nàng công chúa trong chuyện cổ thần tiên vậy. Mái tóc vàng quăn sẫm màu của nàng được bới cao với một lưới tóc điểm thêm những dải ruy băng và lông vũ, một lọn tóc dày buông lơi trên chiếc cổ trắng ngần của nàng. Và mắt nàng, bình thường chỉ một màu xanh rêu, nay lấp lánh như những viên bích ngọc.

Mặc dù Sophie nghi ngờ rằng mắt nàng lấp lánh như vậy là do ảnh hưởng của những giọt lệ trong đáy mắt nhiều hơn là do bất cứ thứ gì khác.

“Đây, mặt nạ của con đây,” Bà Gibbons hoạt bát nói. Nó là một chiếc demi-mask, loại có dây buộc sau đầu để Sophie không phải dùng một tay để giữ nó. “Giờ tất cả những gì chúng ta cần là giày.”

Sophie buồn bã nhìn xuống đôi dày xấu xí dùng để làm phục vụ của nàng nằm trong góc kia. “Con chẳng có gì lộng lẫy để đi cả, con sợ là như thế.”

Cô hầu người đã đánh môi cho Sophie nhấc lên một đôi giày trắng. “Từ tủ quần áo của Rosamund,” cô ấy nói. Sophie trượt bàn chân phải của mình vào chiếc giày đó và nhanh chóng nhấc chân ra. “Nó quá to,” nàng nói, nhìn lên Bà Gibbons. “Con sẽ không thể nào bước đi với đôi giày này được.”

Bà Gibbons quay ra nói với cô hầu. “Lấy một đôi từ tủ quần áo của Posy.”

“Của cô ấy còn lớn hơn nữa cơ,” Sophie nói. “Con biết điều đó. Con đã rửa đủ những vết bẩn từ những đôi giày đó mà.”

Bà Gibbons thả ra một cái thở dài. “Chẳng làm gì được, vậy. Chúng ta sẽ phải khám xét bộ sưu tập của Araminta vậy.” (Eo ơi)

Sophie rùng mình. Ý nghĩ bước đi tới bất kỳ đâu với giày của Araminta thật là rùng rợn. Nhưng làm thế hoặc phải đi không giày, và nàng không nghĩ rằng chân trần sẽ được chấp nhận tại một dạ vũ hóa trang ở London đâu.

Một vài phút sau cô hầu quay lại với một đôi giày satin trắng, thêu chỉ bạc và được tô điểm với nơ hồng đính kim cương nhân tạo.

Sophie vẫn e sợ về việc đi giày của Araminta, nhưng khi nàng trượt chân ướm thử chiếc giày. Nó vừa vặn một cách hoàn hảo.

“Và chúng còn rất hợp nhau nữa chứ,” một trong những cô hầu nói, chỉ vào nhưng đường chỉ bạc mỏng manh. “Như thể chúng được làm ra cho cái váy vậy.”

“Chúng ta không có thời gian để ngồi ngưỡng mộ đôi giày,” Bà Gibbons đột nhiên nói. “Nào con phải nghe những hướng dẫn này thật cẩn thận. Người phu xe đã trở lại sau khi đưa bà bá tước và hai cô con gái của bà ta, và ông ta sẽ đưa con đến Dinh thự Bridgerton. Nhưng ông ta phải trờ ở ngoài khi họ muốn rời khỏi vũ hội, điều đó có nghĩa con phải rời đi vào lúc nửa đêm và không được muộn một giây nào cả. Con hiểu chứ ?”

Sophie gật và nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường. Đã hơn chín giờ rồi, điều đó có nghĩa là nàng có nhiều hơn hai giờ đồng hồ ở tại vũ hội. “Cám ơn,” nàng thì thầm. ‘Ôi, cám ơn bác thật nhiều.”

Bà Gibbons chấm nhẹ nơi khóe mắt với chiếc khăn tay của bà ấy. “Con chỉ cần có một khoảng thời gian tuyệt vời là được rồi, con yêu. Đó là tất cả những lời cảm ơn mà bác cần.”

Sophie nhìn lên đồng hồ lần nữa. Hai giờ.

Trong hai giờ ấy nàng sẽ làm cho nó trở nên thật đáng nhớ..


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.