A Game Of Chance

Chương 1



Trở về Wyoming – trở về nhà – luôn luôn khuấy động trong Chance Mackenzie một sự căng thẳng lẫn lộn của những cảm xúc mà anh không bao giờ có thể quyết định cái nào mới là mạnh nhất, niềm vui sướng hay là sự khó chịu tột cùng. Do bản chất cũng như do được dạy dỗ – không có nghĩa là có bất kì sự dạy dỗ nào trong suốt mười bốn năm đầu hoặc khoảng đó của cuộc đời anh, anh là kiểu đàn ông sẽ thấy thoải mái hơn khi được ở một mình. Nếu anh chỉ có một mình, thì anh có thể hành động mà không cần phải lo lắng về bất kì người nào khác ngoài chính bản thân mình, và ngược lại, sẽ chẳng có ai khiến cho anh thấy không thoải mái vì phải lo lắng cho an toàn của bản thân cả. Loại công việc anh đã chọn chỉ càng củng cố thêm những khuynh hướng này của anh, bởi vì những hoạt động ngầm và chống khủng bố đòi hỏi anh phải vừa bí mật vừa cảnh giác, không được tin tưởng một ai, không được để ai lại gần anh.

Thế nhưng… Thế nhưng, vẫn có gia đình anh. Lôi kéo, ca thán, áp đảo một cách thô bạo, từ chối để anh rút lui, không có nghĩa là anh hoàn toàn chắc chắn anh có thể làm thế thậm chí cả khi họ cho phép điều đó. Anh luôn chết điếng, cảnh giác, khi bước trở lại vào trong cái vòng ôm bao-bọc-trọn-vẹn ấy, để bị trêu chọc và hỏi han – bị trêu chọc, anh, người mà một vài kẻ đáng sợ nhất trên quả đất này sợ hãi một cách chính đáng – để bị ôm và hôn, bị mọi người nhặng xị xung quanh và bị mắng và… được yêu thương, cứ như thể anh cũng giống như tất cả những người khác. Anh đã biết là anh không giống; ý thức đó luôn luôn hiện hữu, ở sâu thẳm trong trí óc anh, rằng anh không giống họ. Nhưng anh vẫn bị kéo về, hết lần này đến lần khác, bởi một điều gì đó sâu thẳm trong tâm can thèm thuồng với chính những thứ khiến anh cảnh giác đến thế. Tình yêu thật đáng sợ; anh đã học được từ rất sớm và khắc nghiệt rằng anh khó có thể dựa vào bất kì ai ngoài bản thân mình như thế nào.

Chính cái thực tế là anh vẫn còn sống sờ sờ ra đó đã là một minh chứng cho sự kiên cường và trí tuệ của anh. Anh không biết mình bao nhiêu tuổi, hay anh đã được sinh ra ở đâu, anh được đặt tên là gì khi còn là một đứa bé, hoặc thậm chí là anh có tên hay không – không gì hết. Anh không có kí ức nào về một người mẹ, người cha, hay bất kì ai đã chăm sóc cho anh. Rất nhiều người đơn giản là không nhớ về thời thơ ấu của họ, nhưng Chance không thể tự an ủi với cái khả năng đó, rằng có một ai đó đã yêu thương anh và chăm sóc anh, bởi vì anh nhớ quá rõ hầu hết những chi tiết khác.

Anh nhớ đã ăn cắp thức ăn từ khi anh còn rất bé đến nỗi anh phải đứng nhón trên đầu ngón chân mới với tới những quả táo trong khay trong siêu thị ở một thị trấn nhỏ. Bây giờ xung quanh anh có quá nhiều trẻ con đến mức bằng cách so sánh những gì anh còn nhớ với kích cỡ của bọn trẻ ở từng độ tuổi nhất định, anh có thể ước đoán anh chỉ cỡ ba tuổi vào khoảng thời gian ấy, thậm chí có khi còn nhỏ hơn.

Anh nhớ đã phải ngủ trong những ống cống khi trời ấm áp, trốn chui trốn nhủi trong kho súc vật, nhà kho, hay bất cứ chỗ nào thuận tiện, những lúc trời lạnh hay mưa gió. Anh nhớ phải ăn cắp quần áo để mặc, một đôi lần chỉ bằng cách đơn giản là tóm một thằng bé chơi một mình trên sân nhà, dùng vũ lực bắt nạt nó và lột quần áo của nó. Chance đã luôn luôn khỏe mạnh hơn những cậu bé cùng tuổi, do những khó khăn thuần túy về thể chất của việc vật lộn để sống sót – và anh cũng đã học cách đánh nhau, vì cùng một nguyên nhân.

Anh nhớ có lần một con chó đã đi theo anh, một con chó lai đen-trắng đã lẵng nhẵng đi theo và cuộn mình nằm cạnh anh để ngủ, và Chance nhớ lại đã biết ơn nó thế nào nhờ hơi ấm của nó. Anh cũng nhớ rằng khi anh với tay lấy một mẩu thịt bò mà anh đã đánh cắp được từ mấy thùng rác ở đằng sau một nhà hàng, con chó đã cắn anh và cướp miếng thịt. Chance vẫn còn hai vết sẹo trên bàn tay trái có dấu răng con chó. Con chó đã có được miếng thịt, và Chance có thêm một ngày nữa không thức ăn. Anh đã không đổ lỗi cho nó; nó cũng bị đói. Nhưng Chance đã đuổi nó đi sau đó, bởi vì ăn trộm đủ thức ăn để giúp anh sống sót cũng đã khó khăn rồi, không cần phải trộm thêm thức ăn cho con chó nữa. Ngoài ra, anh đã học được rằng đến lúc quyết định chuyện sống chết, thì bản thân anh cũng sẽ làm như con chó. Khi liên quan đến chuyện sống chết, thì ai cũng chỉ nghĩ cho bản thân mình.

Có thể anh chỉ mới năm tuổi khi học bài học đặc biệt này, nhưng anh đã tiếp thu nó rất tốt.

Tất nhiên, học cách làm thế nào để sống sót cả ở những khu vực nông thôn và thành thị, trong mọi hoàn cảnh, chính là điều đã khiến anh làm công việc hiện nay quá tốt, cho nên anh nghĩ rằng tuổi thơ khắc nghiệt của anh cũng có những ích lợi của nó. Nhưng cho dù đã cân nhắc trên khía cạnh đó, anh vẫn không hề đổ lỗi cho một con chó vì thời thơ ấu của anh, cho dù là con chó lai chết tiệt đã cắn anh đi nữa.

Cuộc đời thật sự của anh đã bắt đầu vào cái ngày mà Mary Mackenzie tìm thấy anh nằm bên lề đường, ốm gần chết vì một cơn cảm cúm đã chuyển thành bệnh viêm phổi. Anh không nhớ được gì nhiều về những ngày tiếp theo đó – anh đã quá ốm – nhưng anh biết mình đã ở trong một bệnh viện, và anh đã sợ phát điên lên, bởi vì điều đó có nghĩa là anh đã rơi vào bàn tay của hệ thống xã hội, và thực tế là giờ đây anh đã thành một tù nhân. Rõ ràng anh là một đứa bé ở tuổi vị thành niên, không có nhân thân, và tình huống đó chắc chắn sẽ đánh động những cơ quan chăm sóc trẻ em. Anh đã dành gần cả cuộc đời để trốn tránh chính cái sự việc ấy, và anh đã cố lên kế hoạch để chạy trốn, nhưng những ý nghĩ của anh rất mập mờ, khó mà sắp xếp trật tự được, và cơ thể của anh quá yếu để đáp lại yêu cầu cấp bách của bản thân.

Nhưng trong tất cả những chuyện đó anh lại nhớ được vuốt ve bởi một thiên thần với đôi mắt xanh xám dịu dàng và mái tóc nâu nhạt màu, hai bàn tay lành lạnh và một giọng nói đầy yêu thương. Còn có cả một người đàn ông to lớn, tóc đen, một người lai, người đã bình tĩnh và nhắc đi nhắc lại với anh nỗi sợ hãi sâu thẳm nhất. “Chúng ta sẽ không để họ mang con đi,” người đàn ông to lớn đã nói thế mỗi khi Chance choàng tỉnh từ cơn mê man do bị sốt cao.

Anh đã không tin họ, không tin những lời lẽ trấn an của người đàn ông lai to lớn ấy. Chance đã phát hiện ra chính anh cũng có một nửa là người Anh-điêng, nhưng thế thì sao, không có nghĩa anh có thể tin cậy những người này nhiều hơn con chó lai trộm cắp, vô ơn khốn kiếp đó. Nhưng anh quá ốm, quá yếu để trốn thoát hay thậm chí là để chống đối, và trong lúc anh vô dụng như thế thì bằng cách nào đó Mary Mackenzie đã trói gô anh lại bằng sự tận tụy, và anh đã không bao giờ có thể thoát ra được.

Anh ghét bị đụng chạm; nếu ai đó ở gần đủ để chạm vào anh, thì họ cũng đủ gần để tấn công anh. Anh không thể đánh nhau với những y tá và bác sĩ vẫn sờ nắn và chọc ngoáy và lăn anh qua lại như thể anh chẳng hơn gì một tấm thịt vô tri vô giác. Anh phải chịu đựng nó, nghiến chặt răng lại, đấu tranh với cả nỗi kinh hoàng của chính mình và niềm thôi thúc gần như không kìm nén được để chiến đấu, bởi vì anh biết nếu anh đánh nhau với họ anh sẽ bị bắt trói. Anh phải giữ mình tự do, để anh có thể chạy ngay khi anh đủ khỏe để tự di chuyển theo ý mình.

Nhưng bà đã ở đó trong hầu như là toàn bộ thời gian, mặc dù tất nhiên anh biết là bà phải rời khỏi bệnh viện một vài lúc nào đấy. Khi cơn sốt đốt cháy anh, bà lau mặt anh với một tấm khăn lạnh và cho anh ngậm những miếng đá. Bà chải tóc anh, xoa bóp trán anh khi đầu anh đau đến nỗi anh nghĩ sọ mình sẽ vỡ đôi ra; và bà tắm cho anh khi bà nhìn thấy anh trở nên cảnh giác thế nào mỗi lần các y tá làm việc đó. Bằng cách nào đó anh có thể chịu đựng được tốt hơn khi bà tắm cho anh, mặc dù ngay cả trong lúc ốm đau anh cũng vẫn bị choáng váng bởi phản ứng của chính mình.

Bà liên tục chạm vào anh, dự đoán những nhu cầu của anh để cho những cái gối được giũ nhẹ trước cả khi anh thấy có bất kì sự khó chịu nào, nhiệt độ được điều chỉnh trước khi anh trở nên quá nóng hay quá lạnh, hai chân và lưng anh được mát-xa khi cơn sốt khiến anh đau đớn từ đầu cho tới ngón chân. Anh bị ngập trong sự quan tâm thái quá của tình mẫu tử, được bao bọc trong nó. Nó làm anh sợ hãi, nhưng Mary đã tận dụng tình trạng yếu đuối của anh và thô bạo áp đảo anh với tình mẫu tử của bà, như thể bà đã quyết tâm dồn nén đủ sự quan tâm thương mến trong những ngày đó để đền bù cho cả một cuộc đời trống trải.

Từ lúc nào đó trong những ngày sốt mê man, anh đã bắt đầu thích cảm giác của bàn tay lành lạnh của bà trên trán anh, thích nghe giọng nói ngọt ngào ấy khi anh không thể kéo mí mắt nặng trịch của mình mở ra, và âm thanh của nó trấn an anh trong giấc ngủ ở một mức độ sâu sắc, nguyên sơ. Một lần anh nằm mơ, anh không biết là mơ cái gì, nhưng anh tỉnh dậy trong kinh hoàng để nhận ra cánh tay bà vòng quanh anh, đầu anh gối trên cái vai nhỏ của bà như thể anh là một đứa bé, bàn tay bà nhè nhẹ vuốt ve mái tóc anh trong khi bà thì thầm an ủi anh – và anh chìm trở lại vào giấc ngủ cảm thấy dễ chịu và không hiểu sao… lại an toàn.

Anh đã luôn luôn bị choáng ngợp, kể cả là bây giờ, vì bà bé nhỏ biết bao. Một người nào đó với ý chí sắt đá không ngừng nghỉ như thế thì đáng lẽ phải cao hai mét và nặng bốn trăm cân; ít nhất thì như thế mới có lý vì bà đã có thể khuất phục toàn bộ nhân viên bệnh viện, kể cả các bác sĩ, phải làm theo ý muốn của bà. Bà đã ước đoán tuổi của anh vào khoảng mười bốn, nhưng thậm chí cả khi đó anh cũng cao hơn người phụ nữ nhỏ bé đã nắm lấy cuộc đời anh gần cả cái đầu, nhưng trong trường hợp này kích thước chẳng có ý nghĩa gì cả; anh vẫn vô dụng trước bà y như các nhân viên ở bệnh viện.

Không có gì trên đời anh có thể làm để thắng được sự nghiện ngập ngày một tăng tiến của anh đối với tình mẫu tử của Mary Mackenzie, cho dù anh biết là anh đang nuôi dưỡng một sự yếu đuối, một điểm chí mạng khiến anh sợ chết khiếp. Anh chưa từng quan tâm tới bất kì ai hay bất kì cái gì, bản năng mách bảo rằng làm như thế sẽ lột trần điểm yếu về mặt tình cảm của anh. Nhưng nhận thức và sự thận trọng không thể bảo vệ anh được nữa; cho đến khi anh đủ khỏe để ra viện, anh đã yêu người phụ nữ đã quyết định sẽ trở thành mẹ anh, yêu bà với tất cả sự vô vọng mù quáng của một đứa bé.

Khi anh ra viện anh đã đi cùng với Mary và người đàn ông to lớn, tên Wolf. Bởi vì anh không thể chịu đựng được phải rời bỏ bà ngay, anh gồng mình chịu đựng gia đình bà. Chỉ trong một khoảng thời gian thôi, anh đã tự hứa với mình, chỉ đến khi anh khỏe hơn.

Họ đã đưa anh trở về Ngọn núi nhà Mackenzie, đưa anh vào trong gia đình họ, vòng tay họ, trái tim họ. Một cậu bé vô danh đã chết trên vệ đường ngày đó, và Chance Mackenzie đã được sinh ra thế chỗ. Khi Chance chọn một ngày sinh nhật – trước sự khăng khăng của cô em gái mới Maris – anh đã chọn cái ngày Mary tìm thấy anh, chứ không phải một ngày có lẽ hợp lí hơn là ngày anh được chính thức nhận nuôi.

Anh đã chưa bao giờ có bất kì cái gì, nhưng sau ngày hôm ấy anh bị ngập lụt với… mọi thứ. Anh đã luôn luôn bị đói, nhưng giờ đây có đủ thức ăn. Anh cũng gần chết đói kiến thức nữa, và bây giờ có sách ở mọi nơi, bởi vì Mary là một giáo viên cho đến tận xương tủy, và bà đã nhồi sọ kiến thức cho anh, cũng nhanh chóng như là khả năng thẩm thấu của anh vậy. Anh đã quen với việc nằm xuống bất kì nơi đâu anh có thể, nhưng giờ đây anh có căn phòng của chính mình, cái giường của chính mình, và một thời gian biểu. Anh có quần áo, những bộ đồ mới toanh, được mua chỉ để cho anh. Chưa từng có ai mặc chúng, và anh cũng không phải ăn cắp chúng.

Nhưng hơn hết, anh đã luôn luôn cô đơn, và đột nhiên anh bị bao vây bởi một gia đình. Giờ đây anh có một người mẹ và một người cha, bốn anh em trai, một em gái nhỏ, một chị dâu, một đứa cháu trai mới sinh, và tất cả bọn họ đều đối xử với anh như thể anh đã ở đó ngay từ lúc đầu. Anh vẫn khó mà chịu đựng việc bị đụng chạm, nhưng gia đình Mackenzie đụng chạm rất nhiều. Mary – Mẹ – không ngừng ôm lấy anh, xoa đầu anh, hôn anh chúc ngủ ngon, nhặng xị xung quanh anh. Maris, cô em gái mới, làm phiền anh như quỷ y hệt như cái cách cô bé làm phiền những ông anh khác, rồi cô sẽ vòng hai cánh tay gày nhẳng của cô quanh bụng anh và ôm anh thật chặt, nói rằng, “Em rất vui vì anh là của chúng em!”

Anh đã luôn giật nảy mình trong những lúc như thế, và sẽ phóng một cái nhìn cảnh giác về phía Wolf, người đàn ông to lớn là chủ của gia đình Mackenzie và bây giờ cũng là cha của Chance. Ông ta nghĩ gì, khi nhìn cô gái bé nhỏ ngây thơ của ông ta ôm một kẻ như Chance? Wolf Mackenzie không phải là người ngây thơ; nếu ông còn chưa biết chính xác những loại trải nghiệm gì đã tôn đúc nên Chance, thì ông vẫn có thể nhận ra dấu vết nguy hiểm nơi cậu bé nửa hoang dã. Chance luôn luôn tự hỏi liệu những đôi mắt thấu hiểu kia có thể nhìn xuyên qua anh, nhìn thấy máu trên bàn tay anh, tìm kiếm trong đầu óc anh kí ức về người đàn ông mà anh đã giết chết khi anh lên mười.

Có, người đàn ông lai to lớn biết rất rõ loại thú hoang mà ông đã mang vào trong gia đình mình và gọi là con trai, ông đã biết và, như Mary, đã yêu anh, cho dù thế nào đi nữa.

Những năm đầu đời đã dạy Chance cuộc đời lừa lọc như thế nào, dạy anh không được tin bất kì ai, dạy anh rằng tình yêu chỉ khiến anh dễ bị tổn thương và rằng tính yếu đuối sẽ khiến anh mất mạng. Anh đã biết tất cả những điều đó, nhưng vẫn không thể nào ngăn mình khỏi yêu nhà Mackenzie. Điều này chưa bao giờ ngừng làm anh sợ, sự yếu đuối này trong lớp giáp sắt của anh, thế nhưng những lúc ở trong sự bao bọc của gia đình là khoảng thời gian duy nhất anh thấy hoàn toàn thư thái, bởi vì anh biết anh được an toàn với họ. Bây giờ anh không thể bỏ đi, không thể giữ mình ở khoảng cách xa xôi khi anh đã trở thành một người đàn ông có thừa khả năng tự chăm sóc bản thân, vì tình yêu của họ dành cho anh, và tình yêu của anh dành cho họ, đã nuôi dưỡng tâm hồn anh.

Anh thậm chí đã thôi không cố gắng hạn chế mức độ tiếp cận của họ tới trái tim anh và thay vào đó dùng những tài năng đáng kể của mình để làm tất cả những việc trong khả năng của anh khiến cho thế giới của họ, cuộc sống của họ an toàn nhất có thể. Họ ngày càng làm khó anh hơn; gia đình Mackenzie không ngừng tấn công anh bằng sự mở rộng: các anh trai anh lấy vợ, mang đến cho anh các chị dâu để yêu thương, bởi vì các anh trai anh yêu họ và giờ họ là một phần của gia đình. Rồi đến những đứa trẻ. Khi anh mới đến gia đình chỉ có một mình John, con trai đầu lòng của Joe và Caroline, là vừa mới chào đời. Nhưng rồi cháu trai nối tiếp cháu trai, và bằng cách nào đó Chance, cùng với tất cả những người khác trong nhà Mackenzie, thấy mình ẵm bồng trẻ sơ sinh, thay tã lót, giữ chai sữa, để cho một bàn tay nhỏ xíu nắm lấy ngón tay anh trong khi chúng bước chập chững những bước đầu tiên… và mỗi một bàn tay nhỏ bé đó cũng nắm lấy cả trái tim anh nữa. Anh không hề phòng ngự với chúng. Giờ anh đã có mười hai cháu trai, và một đứa cháu gái mà anh đặc biệt vô dụng trước nó, khiến tất cả những người khác rất buồn cười.

Trở về nhà luôn làm thần kinh căng thẳng, nhưng anh vẫn khao khát hướng về gia đình mình. Anh sợ cho họ, sợ cho chính mình, bởi vì anh không biết liệu bây giờ anh có thể sống mà không có sự ấm áp của gia đình Mackenzie bao bọc hay không. Trí óc anh nói với anh rằng sẽ tốt hơn nếu anh dần dần nới lỏng những sợi dây và tách biệt mình khỏi cả sự sung sướng lẫn khả năng đau khổ, nhưng trái tim anh thì luôn dẫn anh trở về nhà một lần nữa.

Chance yêu những chiếc xe mô tô. Cái con quái vật to lớn giữa hai chân anh chạy hết tốc lực như đang gầm lên dọc theo con đường hẹp quanh co, gió trong tóc anh, ngả người theo những đường cua với con quái vật như thế họ là một, con người và máy móc. Không có chiếc xe mô tô nào khác trên thế giới phát ra tiếng như một chiếc Harley, với cái tiếng ầm ầm sâu, như khạc ra làm rung động xuyên suốt cả cơ thể anh. Cưỡi trên một chiếc xe mô tô luôn mang đến cho anh một sự hưng phấn, và phản ứng nội tạng của anh với tốc độ và sức mạnh chưa bao giờ làm anh chán.

Sự nguy hiểm rất gợi tình. Mọi chiến binh đều biết điều đó, mặc dù nó không phải là thứ người ta sẽ đọc về nó trong những tạp chí Chủ Nhật của mình. Anh trai Josh của anh thừa nhận một cách thoải mái là việc hạ đo ván một tay đấm bốc trên sàn đấu luôn luôn khiến anh hào hứng. “Nó chỉ là một loại cực khoái,” đó là cách mà Josh gọi nó. Joe, người có thể lái bất kì kiểu máy bay nào, từ chối bình luận nhưng luôn mỉm cười với một nụ cười từ tốn, am hiểu.

Còn đối với cả Zane và anh, Chance biết có những lần khi mỗi người đã thoát ra khỏi những tình huống có chút căng thẳng, thường liên quan đến súng đạn, chẳng muốn gì hơn là có một người phụ nữ nằm dưới anh. Nhu cầu tình dục của Chance trở nên hung dữ vào những lúc như thế, cơ thể anh tràn ngập với adrenaline và testosterone (kích thích tố sinh dục nam), anh đang sống và anh cần một cách mãnh liệt một cơ thể đàn bà mềm mại mà anh có thể chôn vùi bản thân mình và giải phóng mọi sự căng thẳng trong đó. Thật không may, điều đó lại luôn phải đợi: đợi cho tới khi anh ở khu vực an toàn, có thể thậm chí ở một đất nước hoàn toàn khác, đợi cho đến khi có một người phụ nữ tự nguyện, sẵn sàng ngay đó, và, quan trọng nhất, đợi cho đển khi anh dịu xuống đủ để anh có thể trở nên khá lịch sự trên giường.

Nhưng vào lúc này, chỉ có chiếc Harley và anh, không khí ngọt ngào của núi non xông lên mặt anh và sự hỗn độn trong thâm tâm anh giữa niềm và nỗi hoảng sợ của việc trở về nhà. Nếu Mẹ nhìn thấy anh cưỡi chiếc Harley mà không có mũ bảo hiểm, bà sẽ lột da sống anh, đó là lý do mà anh có cái mũ bảo hiểm bên mình, buộc chắc chắn ở sau chỗ ngồi. Anh đội nó vào trước khi điềm tĩnh phóng lên ngọn núi để thăm họ. Cha sẽ không bị lừa, nhưng ông cũng chẳng nói một lời nào, bởi vì Wolf Mackenzie biết cái gì là bay cao và bay xa.

Anh phóng lên tới đỉnh núi, và căn nhà của Zane hiện ra trong tầm mắt trong cái thung lũng rộng phía dưới. Căn nhà rộng với năm phòng ngủ và bốn phòng tắm, nhưng không phô trương; Zane đã xây ngôi nhà này theo bản năng vì thể nó không thu hút sự chú ý một cách thái quá. Nó trông không rộng như thực tế, bởi vì có một vài căn phòng nằm ở dưới đất. Anh ấy cũng đã xây nó an toàn hết mức có thể, đặt nó ở vị trí đó, như vậy anh có cái nhìn không hạn chế về tất cả các hướng, nhưng lại sử dụng địa thế tự nhiên của mảnh đất để hạn chế lối vào chỉ còn lại một con đường. Các cánh cửa đều bằng thép, với những chiếc khóa tối tân, các cửa sổ làm bằng kính không vỡ, và nó tốn cũng khá nhiều tiền. Những bức tường ở vị trí chiến lược có bọc sắt ở bên trong, và một cái máy phát điện được cài đặt ở dưới tầng hầm. Tầng hầm cũng che dấu một đường trốn thoát khác, nếu như việc tẩu thoát là cần thiết. Các bộ cảm ứng chuyển động được cài quanh ngôi nhà, và khi Chance lăn bánh chiếc mô tô vào đường lái xe, anh biết rằng việc anh tới nơi vừa được báo hiệu.

Zane không giữ gia đình mình bị khóa trong một cái nhà tù, nhưng những biện pháp an toàn dự phòng ở đó nếu cần tới. Căn cứ vào nghề nghiệp của họ, sự khôn ngoan đòi hỏi phải thận trọng, và Zane đã luôn chuẩn bị cho những trường hợp khẩn cấp, và luôn có một kế hoạch dự phòng.

Chance tắt máy và ngồi đó một phút, để cho những giác quan của anh trở lại bình thường trong khi anh dùng một tay vuốt lại mái tóc bị gió thổi. Rồi anh đẩy chân chống xe và dựa chiếc Harley lên đó và bước xuống y như cách anh bước xuống từ một con ngựa. Lấy một tập tài liệu mỏng từ cái hộp chứa đồ, anh bước lên cái cổng mở rộng, có bóng mát.

Đó là một ngày hè ấm áp, giữa tháng 8, và bầu trời là một màu trong xanh không mây. Những con ngựa chạy tới lui một cách mãn nguyện trên bãi cỏ, mặc dù một vài con trong số chúng tò mò hơn đã lại gần hàng rào để quan sát bằng những đôi mắt đen to, trong khi cái bộ máy ầm ĩ gào thét trên đường xe chạy. Những con ong bay vo vo quanh những bông hoa của Barrie, và những con chim tiếp tục hót trên những cành cây. Wyoming. Nhà. Cách đó không xa, Ngọn núi nhà Mackenzie, với căn nhà trải dài trên đỉnh núi, nơi mà anh đã được ban cho… cuộc sống và mọi thứ khác trên cuộc đời này quan trọng với anh.

“Cửa đang mở đấy.” Giọng nói trầm lặng, bình tĩnh của Zane phát ra từ hệ thống liên lạc bên trong cánh cửa. “Anh đang ở trong văn phòng.”

Chance mở cánh cửa và bước vào bên trong, đôi chân đi bốt của anh không phát ra tiếng động khi anh đi xuống hành lang tới văn phòng của Zane. Với những tiếng động nhỏ, những cái khóa cửa tự động khớp lại đằng sau anh. Căn nhà im ắng, điều đó có nghĩa là Barrie và những đứa trẻ không có ở nhà, nếu Nick ở đâu đó trong căn nhà con bé sẽ vừa chạy về phía anh vừa kêu ré lên, lao cả người nó vào vòng tay anh, líu lo không ngừng bằng cái giọng tiếng Anh ngọng líu ngọng lô trong khi giữ chặt khuôn mặt anh bằng cả hai bàn tay nhỏ xíu của nó để chắc chắn là sự chú ý của anh không rời khỏi nó – như thể anh dám nhìn đi chỗ khác. Nick giống như là một gói chất nổ nhỏ không ổn định, tốt nhất là đề phòng con bé.

Cánh cửa tới phòng làm việc của Zane bị đóng một cách không mong đợi, Chance dừng lại một lúc, rồi mở nó mà không gõ cửa.

Zane ngồi đằng sau cái bàn làm việc, máy tính bật, các cửa sổ mở toang đón không khí tươi mát, ấm áp. Anh gửi cho em trai mình một trong những nụ cười hiếm hoi, ấm áp, “Quan sát chỗ chú bước chân nhé,” anh thông báo. “Những anh chàng tí hon đang ở trên sàn.”

Chance tự động nhìn xuống, kiểm tra sàn nhà, nhưng anh chẳng thấy đứa nào trong hai đứa sinh đôi cả. “Đâu?”

Zane hơi ngả người về sau chiếc ghế, nhìn quanh đám con của anh, phát hiện ra chúng, anh nói, “Dưới bàn làm việc. Khi chúng nghe thấy anh để chú vào, chúng đã trốn.”

Chance nhướn đôi lông mày. Theo kiến thức của anh, hai đứa trẻ sinh đôi 10 tháng tuổi không có thói quen trốn bất kì ai hay bất cứ thứ gì. Anh nhìn lại một cách cẩn thận hơn và nhìn thấy bốn bàn tay trẻ con mũm mĩm, vẫy vẫy ló ra từ phía dưới mặt bàn của Zane. “Chúng không giỏi chuyện đó nhỉ,” anh quan sát. “Em có thể thấy tay của chúng.”

“Hãy cho tụi nhỏ thời gian, chúng mới biết trò này thôi. Chúng chỉ vừa mới bắt đầu làm thế tuần này. Chúng đang chơi trò Tấn Công.”

“Tấn công?” Chống lại cơn buồn cười chợt đến, Chance nói, “Em được biết đó là chuyện gì không?”

“Cứ đứng đó. Chúng sẽ phóng ra khỏi chỗ nấp nhanh hết sức có thể và tóm lấy mắt cá chân của chú.”

“Có liên quan gì đến đau đớn không?”

“Không hề.”

”Okay. Thế tụi nó sẽ làm gì với em một khi đã tóm được em?”

“Chúng nó vẫn chưa tới được phần đó. Bây giờ, chúng mới chỉ tự kéo mình lên và đứng đó cười rúc rích.” Zane xoa cằm, cân nhắc. “Có lẽ, chúng nó sẽ ngồi lên chân chú để lôi chú xuống, nhưng phần lớn thời gian chúng nó rất thích đứng để thay cho việc phải ngồi.”

Cuộc tấn công nổ ra. Thậm chí với lời cảnh báo của Zane, Chance vẫn có một chút ngạc nhiên. Chúng đặc biệt bình tĩnh, so với những đứa trẻ. Anh phải ngưỡng mộ tính chính xác của chúng; chúng bắt đầu từ dưới cái bàn với những cái chân mũm mĩm, bò một cách nhanh chóng, và với những tiếng reo mừng chiến thắng đồng loạt kèm theo chúng khi với tới mắt cá chân của anh. Những bàn tay nhỏ bé túm lấy quần jean của anh.Một đứa bên trái rơi bịch xuống chân anh trong một giây, sau đó nghĩ ra một cách tốt hơn và bắt đầu xoắn quanh để tự kéo mạnh tới một vị trí đứng thẳng. Những cánh tay trẻ con vòng quanh đầu gối anh, và hai kẻ chiến thắng bé nhỏ cười ré lên với sự thích thú, tiếng cười khúc khích nổi lên của chúng kéo theo tiếng cười lớn của cả hai người đàn ông.

“Tuyệt,” Chance nói một cách ngưỡng mộ. “Những con thú săn mồi non.” Anh quăng tập tài liệu lên bàn Zane và ngả người xuống để tóm lấy hai chiến binh nhỏ bé trong tay, đặt mỗi cái mông được quấn tã lên một cẳng tay cơ bắp của anh. Cameron và Zack cười với anh, sáu cái răng trẻ con bé tí màu trắng lấp lánh trên mỗi khuôn mặt có lúm đồng tiền, và ngay lập tức chúng vỗ nhẹ vào mặt anh với những bàn tay bé xíu, mập mạp, kéo tai anh, móc vào túi áo sơ mi của anh. Nó giống như là bị tấn công bởi hai cục kẻo dẹo uốn éo và đặc biệt nặng.

“Chúa nhân từ,” anh nói trong sự ngạc nhiên. “Chúng nó nặng cả tấn.” Anh đã không trông đợi chúng lớn quá nhiều trong vòng hai tháng kể từ khi anh thấy chúng.

“Chúng nó gần nặng bằng Nick rồi đấy. Con bé vẫn nặng hơn, nhưng anh thề là chúng tạo cảm giác nặng hơn.” Hai đứa trẻ sinh đôi đang lớn dần lên cứng cáp và khỏe mạnh, những cậu bé đã thể hiện tầm vóc của những người đàn ông nhà Mackenzie, trong khi Nick thì thanh nhã giống bà nội Mary của nó.

“Barrie và Nick đâu rồi?” Chance hỏi, quên mất bà chị dâu xinh đẹp và cô cháu gái hồ hởi, vui vẻ như quỷ của mình.

“Bọn anh có một cơn khủng hoảng giầy. Đừng hỏi.”

“Làm thế nào mà anh lại có một cơn khủng hoảng giầy?” Chance hỏi, không thể ngăn mình. Anh ngồi xuống cái ghế lớn, thư giãn ở bên kia bàn làm việc của Zane, đặt hai đứa bé một cách thoải mái hơn trong lòng. Chúng đã mất hứng thú với việc kéo tai anh và bắt đầu bi bô với nhau, vươn tới, quấn tay và chân chúng như thể chúng tìm kiếm sự gần gụi nhất mà chúng đã biết trong khi định hình từ trong bụng mẹ. Chance vuốt ve chúng một cách vô thức, thích thú với sự mềm mại của da chúng, và cái cảm giác uốn éo của trẻ con trong cánh tay anh. Tất cả trẻ con nhà Mackenzie lớn lên đều làm quen với việc được chạm vào một cách thường xuyên và yêu mến bởi toàn bộ gia đình đông đảo.

Zane đan hai bàn tay đằng sau gáy, cơ thể mạnh mẽ, to lớn của anh thả lỏng. “Ban đầu chú có một đứa trẻ ba tuổi yêu thích đôi giày Chủ Nhật sáng bóng, màu đen, bằng da sơn của con bé. Rồi chú đã mắc một chiến thuật sai lầm khủng khiếp là để con bé xem Phù thủy xứ Oz.” Cái miệng nghiêm nghị của anh co rúm lại, và đôi mắt xanh nhạt của anh ánh lên với sự thích thú.

Đầu óc nhanh nhậy của Zane nhanh chóng kết nối, và sự hiểu biết về cô nàng ba tuổi được nói đến cho phép anh đi đến một kết luận hợp lý: Nick đã quyết định con bé phải có một đôi giày đỏ. “Con bé đã làm gì để thử nhuộm chúng?”

Zane thở dài, “Son môi, còn gì nữa?” Tất cả những đứa trẻ con nhà Mackenzie đều đã có một vụ rắc rối với son môi. Đó là một truyền thống gia đình, một khi John đã bắt đầu, vào lúc 2 tuổi, cậu bé đã sử dụng thỏi son môi yêu thích của mẹ mình để tô màu những hàng salad hoa quả ấn tượng trên bộ đồng phục của Joe. Caroline đã rất giận dữ, bởi vì màu son đó đã không còn được tiếp tục sản xuất và tìm một thỏi son mới trở nên khó khăn hơn nhiều so với việc thay thế những vạch màu nhỏ ghi lại những cái huân chương mà Joe đã giành được và những nhiệm vụ anh đã thực thi.

“Anh không thể chỉ lau sạch nó đi à?” Hai đứa sinh đôi đã khám phá ra cái khóa thắt lưng và khóa kéo quần của anh, và Chance dịch chuyển những cái tay nhỏ xíu bận rộn đang cố cởi đồ của anh ra. Chúng bắt đầu uốn éo để đòi xuống và anh nghiêng người sang bên để dặt chúng xuống sàn nhà.

“Đóng cửa vào đi,” Zane chỉ thị, “hoặc là chúng sẽ thoát ra mất.”

Ngả người về phía sau, Chance vươn dài một cánh tay ra và đóng cửa lại, chỉ vừa đúng lúc. Hai nghệ sĩ tẩu thoát quấn tã lót hầu như vừa tới nơi. Mất tự do, chúng rơi bịch xuống cái mông quấn tã và xem xét tình huống, rồi bắt đầu bò thị sát chu vi của căn phòng.

“Anh đã có thể lau nó,” Zane tiếp tục, giọng anh mỉa mai, “nếu anh đã biết chuyện đó. Thật không may, Nick lại tự mình lau đôi giày của nó. Con bé để chúng trong máy rửa bát.”

Chance ngả đầu về sau với một trận cười.

“Barrie đã mua cho con bé một đôi giày mới vào hôm qua. Phải, chú biết là Nick luôn rất kiên quyết về những thứ nó muốn mặc như thế nào rồi đấy. Con bé chỉ nhìn đôi giày có một lần, rồi bảo chúng xấu xí, mặc dù chúng giống y như đôi giày con bé đã phá hỏng, và thậm chí từ chối đi thử.”

“Chính xác là,” Chance sửa lại, “con bé nói rằng chúng ‘chấu chí”*. Zane thừa nhận điều đó. “Mặc dù con bé đã trở nên khá hơn với chữ L. Con bé luyện tập, nói những từ thực sự quan trọng, như kẹo mút, và tự lặp đi lặp lại.”

*Nguyên văn là Nick nói từ ugly thành “ugwy”, không phát âm được chữ L và tập luyện với từ lollipop.

“Thế bây giờ con bé đã nói được ‘Chance’, thay vì ‘Dance’ chưa?” Chance hỏi, bởi vì Nick bướng bỉnh thậm chí chối không công nhận là con bé không thể nói được tên của anh. Con bé khăng khăng là mọi người khác đang nói sai.

Vẻ mặt của Zane hoàn toàn bất động. “Đừng có mơ*.”

*Câu trả lời của Chance là “Not a chance” để chơi chữ với tên Chance.

Chance lầm bầm với trò chơi chữ, ước là anh đã không hỏi. “Em cho là Barrie đã dẫn cô nàng đáng yêu của chúng ta đi mua sắm để con bé có thể chọn lấy đôi giày cho nó.”

“Chính xác.” Zane liếc qua mấy cậu con trai đang chơi lang thang của anh. Như thể chúng đang đợi sự chú ý của cha mẹ, đầu tiên là Cam và rồi Zack rơi bịch xuống đâm sầm vào nhau và kêu ré lên những tiếng cảnh báo ngắn, trong suốt thời gian nhìn cha chúng một cách chờ đợi.

“Giờ ăn,” Zane nói, xoay cái ghế của anh ra để anh có thể lấy hai cái chai từ cái thùng lạnh nhỏ dưới bàn. Anh đưa một cái cho Chance. “Chộp lấy một đứa.”

“Anh đã sẵn sàng, như thường lệ,” Chance nhận xét khi anh bước vòng qua hai đứa trẻ sinh đôi và nghiêng người xuống để nhấc một đứa lên trong tay mình. Giữ đứa trẻ ở trên, anh nhìn chăm chú thật nhanh vào cái khuôn mặt bé tí giận dữ để chắc chắn là anh đã có đứa trẻ mà anh nghĩ là anh đã tóm được nó. Đó là Zack, đúng rồi. Chance không thể nói chính xác làm thế nào anh biết đứa nào là đứa nào trong hai đứa trẻ sinh đôi, bất kì ai trong gia đình cũng biết, bởi vì hai đứa trẻ quá đồng nhất đến nỗi bác sĩ nhi khoa của chúng đã đề nghị đặt những vòng nhận dạng lên chúng. Nhưng mỗi đứa đều có những cá tính xác định được phản ảnh trên vẻ mặt chúng, điều mà không ai trong gia đình nhầm lẫn từ trước đến giờ.

“Anh phải chuẩn bị trước. Barrie đã cai sữa cho chúng tháng trước, và chúng không vui vẻ gì khi phải chờ đợi bữa tối đâu.”

Đôi mắt tròn xoe màu xanh nước biển của Zack tập trung dữ dội vào cái bình trên tay Chance. “Sao chị ấy cai sữa cho tụi nhỏ quá sớm như vậy?” Chance hỏi khi anh ngồi lại và đặt đứa trẻ ở chỗ khuỷu tay. “Chị ấy đã cho Nick bú đến tận lúc nó một tuổi.”

“Chú sẽ thấy,” Zane nói cộc lốc, đặt Cam trong lòng mình.

Ngay khi Chance cầm cái bình trong tầm với của đôi bàn tay bé nhỏ mập mạp của Zack, đứa trẻ đã tóm lấy nó, hướng nó tới cái mồm phàm ăn đang mở to của nó. Thằng bé kẹp chặp một cách tàn bạo cái núm vú. Hiển nhiên là quyết định để cho chú của nó giữ cái chai, tuy nhiên nó đảm bảo cho cái tình huống đó ổn định bằng cách giữ chặt cổ tay áo của Chance bằng cả hai bàn tay, và vòng cả hai cái chân mũm mĩm quanh cẳng tay của Chance. Rồi thằng bé bắt đầu gầm gừ khi bú sữa, dừng lại chỉ để nuốt.

Một tiếng động gầm gừ tương tự phát ra từ trong lòng của Zane. Chance nhìn lại để xem cánh tay của anh trai bị giữ theo cùng một cách khi hai đứa man rợ nhỏ xíu tóm chặt bữa ăn của chúng.

Sữa nổi bọt quanh cái miệng xinh xắn của Zack, và Chance chớp mắt khi sáu cái răng bé tẹo màu trắng gặm cái núm vú bằng nhựa.

“Đồ quỉ, chẳng lạ gì mà mẹ cai sữa cho cậu.”

Zack không dừng lại trong khi nó gặm, bú, và gầm gừ, nhưng nó búng một cái liếc ngạo mạn lố bịch cho chú của mình trước khi quay lại với sự chú ý chính là làm căng cái bụng bé tí của nó.

Zane đang cười nhẹ, và anh nâng Cam lên đủ để anh có thể dí mũi vào một trong hai cái chân mũm mĩm đang kiên quyết vòng quanh tay anh. Cam dừng lại để càu nhàu với sự cắt ngang, rồi đổi ý định và thay vì thế ưu đãi cho cha mình một nụ cười có lúm đồng tiền, đầy sữa. Giây thứ hai nụ cười biến mất và thằng bé lại tấn công cái bình.

Mái tóc xù màu đen của Zack mềm như lụa nằm trên cánh tay của Chance. Những đứa bé là một niềm vui thích tinh khiết có thể sờ thấy được, anh nghĩ, mặc dù anh đã không đồng ý với ý kiến này khi lần đầu tiên anh giữ một đứa bé. Đứa bé được nói đến là John, hét vỡ đầu anh vì sự khổ sở của việc mọc răng.

Khi Chance ở cùng nhà Mackenzie chưa lâu, chỉ một vài tháng, và anh vẫn cực kì đề phòng những con người này. Anh đã cố gắng – một cách công khai – kiềm chế bản năng phản công lại bất cứ lúc nào họ chạm vào anh, trừ việc anh vẫn nhảy dựng lên như một con thú hoang hoảng hốt. Joe và Caroline tới thăm, và từ những biểu hiện trên khuôn mặt họ khi họ bước vào ngôi nhà, đó là một chuyến đi rất dài. Thậm chí Joe, bình thường quá kiềm chế và điềm tĩnh, đã nổi giận bởi những cố gắng vô ích để dỗ dành cậu con trai, và Caroline đã hoàn toàn rã rời bởi một tình huống mà chị không thể nào giải quyết được với lập luận hoàn hảo thông thường của chị. Mái tóc vàng của chi bị rối tung, và đôi mắt xanh lá cây của chị hiện lên một sự pha lẫn đáng ngạc nhiên của lo âu và tổn thương.

Khi chị bước tới gần Chance, chị đột nhiên quay lại và đặt đứa trẻ đang la hét vào tay anh. Giật mình và hoảng hốt, anh cố gắng giật lại, nhưng trước khi anh biết điều đó anh đã là vật sở hữu duy nhất của cái con người bé nhỏ đang ngọ nguậy, gào thét. “Đây,” chị nói với sự tin tưởng và vô cùng quả quyết. “Em hãy dỗ thằng bé đi.”

Chance sợ hãi. Quả là một điều kì diệu khi anh không đánh rơi đứa bé. Anh chưa bao giờ giữ một đứa trẻ trước đó, và anh không biết phải làm gì với nó. Phần kinh ngạc khác của anh là Caroline đã giao phó đứa trẻ yêu mến của chị cho anh, một đứa con hoang bị bỏ rơi mà Mary – Mẹ – đã nhặt về nhà. Tại sao những người này lại không thể nhìn thấy anh là ai? Tại sao họ không thể hiểu ra là anh đã sống trong một thế giới giết – hoặc bị giết, và rằng họ sẽ an toàn hơn nếu họ giữ khoảng cách với anh?

Thay vì đó, có vẻ không ai nghĩ rằng thật không bình thường hay đáng báo động khi anh đang giữ một đứa bé, cho dù là trong sự hoảng hốt anh giữ John hầu như trong chiều dài cánh tay, giữ chặt ở giữa hai bàn tay mạnh mẽ của anh.

Nhưng sự yên tĩnh vui sướng tràn ngập trong căn nhà, John đã bị giật mình bởi tiếng hét của anh. Thằng bé bắt đầu một cách hứng thú với con người mới, đá chân của nó. Chance tự động đổi vòng kẹp của anh với đứa trẻ, ẵm thằng bé trong một cánh tay như anh đã nhìn thấy người khác làm thế. Đứa trẻ đang chảy nước dãi. Một cái yếm bé xíu nhanh chóng vòng quanh cổ nó, và Chance đã dùng nó để chùi sạch cái vết nước dãi. John nhìn thấy cơ hội đó và chụp lấy ngón tay cái của Chance, ngay lập tức đưa cái ngón tay đó vào miệng và nhai. Chance nhảy dựng lên với sức mạnh của hai cái lợi nhỏ xíu, cứng ngắc, với hai cái răng bé tí, sắc nhọn đã nhú lên. Anh nhăn mặt vì đau nhưng vẫn để nguyên đó, để cho John dùng ngón tay cái của anh như một cái núm vú cho đến khi Mẹ giải thoát anh bằng cách mang một cái khăn mặt ướt lạnh cho đứa trẻ nhai.

Sau đó Chance trông đợi được cho thoát khỏi việc trông trẻ, bởi vì Mẹ thường xuyên không thể chờ để được chạm tay vào đứa cháu trai của bà. Nhưng ngày đó mọi người có vẻ bằng lòng để John trong tay anh, thậm chí cả đứa trẻ cũng vậy, và một lát sau Chance bình tĩnh lại đủ để bắt đầu đi quanh quẩn và chỉ ra những trò khiến anh bạn bé nhỏ thích thú, tất cả những thứ mà John ngoan ngoãn ngắm nghía trong khi đang nhai cái khăn tay được đưa tới giải vây.

Đó là sự thấm nhuần của anh với những kiểu cách của bọn trẻ con, và từ ngày đó trở đi anh đã thành một người mê mẩn những cậu cháu trai mà những ông anh đầy nam tính và những bà chị dâu mau mắn của anh đã tạo ra rất đều đặn. Anh có vẻ càng ngày càng mê mẩn hơn, bởi vì với ba đứa trẻ của Zane anh đã hoàn toàn mụ mị.

“Tiện thể, Maris đang mang bầu.”

Đầu Chance giật lên, và một nụ cười ngoác miệng ánh lên trên khuôn mặt rám nắng của anh. Cô em gái bé bỏng của anh đã cưới chồng được 9 tháng và ngày càng trở nên bực dọc bởi vì cô nàng đã không mang bầu ngay lập tức.

“Lúc nào thì sinh?” Anh luôn không ngần ngại sắp xếp mọi việc để anh có thể ở nhà khi một Mackenzie mới ra đời. Một cách nghiêm túc, đứa trẻ đó sẽ phải là một MacNeil, nhưng đó chỉ là chuyện thứ yếu.

“Tháng ba. Con bé nói nó sẽ trở nên điên mất trước lúc đó, bởi vì Mac sẽ không để nó ra khỏi tầm mắt.”

Chance cười khúc khích. Ngoài cha và các anh trai của cô, Mac là người đàn ông duy nhất Maris đã từng gặp mà cô không thể đe dọa, cũng là một trong những lý do khiến cô rất yêu anh. Nếu Mac đã quyết định là anh sẽ canh chừng Maris trong suốt thời gian bầu bí của cô, cô có rất ít hi vọng trốn thoát cho một trong những cuộc cưỡi ngựa đường dài mệt mỏi mà cô vô cùng yêu thích.

Zane hất đầu về phía tập tài liệu trên bàn anh. “Chú định nói gì với anh về cái đó?”

Chance biết Zane đang hỏi nhiều hơn nội dung của tập tài liệu. Anh đang hỏi lí do tại sao nó không được truyền qua máy tính, thay vì vậy Chance tự tay mang tới một bản văn kiện. Zane biết thời gian biểu của em trai mình, anh là người duy nhất, ngoài bản thân Chance, biết điều đó, vì thế anh biết Chance hiện tại đáng lẽ phải đang ở Pháp. Anh cũng hỏi lý do tại sao anh không được thông báo về sự thay đổi hành trình của Chance, tại sao em trai anh đã không đơn giản là gọi một cú để anh biết là chú ấy đang tới.

“Em không muốn mạo hiểm, thậm chí một chút rò rỉ.” Lông mày Zane nhướn lên. “Chúng ta có những vấn đề về bảo mật?”

“Theo em được biết thì không có gì,” Chance nói. “Điều mà em không biết được khiến em lo lắng. Nhưng như em đã nói, không ai khác có thể nghe, thậm chí là một lời thì thầm về nó. Nó chỉ là chuyện giữa chúng ta.”

“Bây giờ chú đã khiến anh tò mò đấy.” Đôi mắt xanh lạnh lùng của Zane ánh lên sự thích thú.

“Crispin Hauer có một cô con gái.”

Zane không thẳng người lên khỏi chỗ ngồi thư giãn của anh, nhưng vẻ mặt anh cứng lại. Crispin Hauer nằm ở vị trí số một trong danh sách mục tiêu đã nhiều năm, nhưng tên khủng bố này khó nắm bắt cũng như những tội ác của hắn vậy. Họ vẫn chưa tìm được bất kì cách nào để tiếp cận gần với hắn ta, bất kì điểm yếu nào mà họ có thể lợi dụng, hay con mồi nào mà họ có thể dùng để nhử hắn vào bẫy. Có một hồ sơ về một cuộc hôn nhân ở London 35 năm trước, nhưng vợ của Hauer, hồi còn con gái là Pamela Vickery, đã biến mất, và không có dấu vết nào của bà ta đã được phát hiện. Chance, cùng với những người khác, đã kết luận là người phụ nữ đã chết sau đám cưới, hoặc là bởi bàn tay của Hauer hoặc là bởi kẻ thù của hắn ta.

“Cô ta là ai?” Zane hỏi. “Cô ta ở đâu?”

“Tên cô ta là Sonia Miller, và cô ta ở đây, ở nước Mỹ.”

“Anh biết cái tên này,” Zane nói, ánh nhìn của anh sắc nhọn.

Chance gật đầu. “Hiển nhiên, cô ta là người chuyển phát được cho là đã bị cướp hành lý tuần trước ở Chicago.”

Zane không bỏ qua sự “được cho là”, nhưng rồi, anh không bao giờ bỏ qua bất cứ chuyện nào. “Chú nghĩ nó là một sự sắp đặt?”

“Em nghĩ đó là một khả năng cực kì đáng tin. Em đã tìm thấy mối liên kết khi em kiểm tra xuất thân của cô ta.”

“Hauer có lẽ đã biết cô ta đã bị phát hiện sau khi mất hành lí, đặc biệt một cái va ly chứa những tài liệu về không gian vũ trụ. Tại sao lại nhận rủi ro như vậy?”

“Hắn ta có thể đã không nghĩ là chúng ta sẽ tìm thấy cái gì đó. Cô ta được nhận nuôi, Hal và Eleanor Miller được ghi là cha mẹ của cô ta, và họ sạch như chùi. Em sẽ không biết cô ta được nhận nuôi nếu như em đã không cố thử lôi giấy khai sinh của ta ra trên máy tính. Đoán thử xem điều gì – Hal và Eleanor chưa bao giờ có con. Sonia Miller bé nhỏ không có giấy khai sinh. Vì thế em đã đào sâu thêm và tìm thấy hồ sơ nhận nuôi -”

Lông mày của Zane nhướn lên. Việc nhận con nuôi công khai là nguyên nhân của rất nhiều vấn đề đến nỗi xu hướng rõ ràng xoay trở lại những hồ sơ bí mật, mà gắn liền với những luật lệ bảo mật điện tử và các biện pháp bảo vệ, đã khiến nó trở nên vô cùng khó khăn thậm chí là để xác định vị trí những hồ sơ bí mật đó, lại càng khó khăn hơn với việc truy cập vào nó. “Chú có để lại dấu vân tay nào không?”

“Không có gì dẫn trở lại chúng ta. Em đã dùng một số điểm để nghi binh, rồi tấn công vào Cơ quan thuế vụ và truy cập vào các tệp tài liệu từ hệ thống của họ.”

Zane cười. Nếu bất kì ai thực sự chú ý tới vụ trộm cắp thông tin điện tử này, thì thậm chí nó chắc chắn không được đề cập tới, không ai lại đi xoi mói vào những người đóng thuế.

Zack đã uống xong cái bình của thằng bé, sự kìm kẹp hung dữ của nó với cái bình giảm bớt, và cái đầu của nó tựa một cách uể oải vào cánh tay Chance khi nó vùng vẫy một chút để chống lại giấc ngủ. Chance tự động nâng đứa trẻ lên vai và bắt đầu vỗ nhẹ vào lưng nó. “Cô Milller được thuê làm người chuyển phát hơn 5 năm trước. Cô ta có một căn hộ ở Chicago, nhưng những người hàng xóm của cô ta nói rằng cô ta rất hiếm khi ở đó. Em phải nghĩ đó là một sự cài đặt dài hạn, rằng cô ta đã làm việc cho cha mình ngay từ đầu.”

Zane gật đầu. Họ đã kết luận điều tồi tệ nhất, bởi vì công việc của họ là phải làm vậy. Chỉ có chặn trước những chuyện tồi tệ nhất mới có thể giúp họ sẵn sàng giải quyết nó.

“Chú có ý tưởng gì không?” anh hỏi, lấy cái chai ra khỏi bàn tay kẹp chặt đang lỏng dần của Cam và nhẹ nhàng nhấc đứa trẻ đang ngủ lên vai anh.

“Tiếp cận cô ta. Khiến cho cô ta tin tưởng em.”

“Cô ta sẽ không phải là loại tin người đâu.”

“Em có một kế hoạch,” Chance nói, và cười, bởi vì đó thường là sở trường của Zane.

Zane cười đáp lại, rồi ngừng lại khi cái bảng điều khiển an ninh nhỏ trên tường kêu một tiếng báo động khẽ. Anh liếc lên cái màn hình. “Gồng mình lên đi,” anh khuyên. “Barrie và Nick về nhà rồi.”

Vài giây sau cánh cửa trước mở ra và một tiếng la hét đầy khắp căn nhà. “Cú Dance! Cú Dance Cú Dance Cú Dance!” (Chú Chance) Tiếng thét được nhấn mạnh với âm thanh của tiếng bước chân nhỏ xíu chạy và nhảy bổ xuống hành lang khi sự chào đón của Nick với cuộc viếng thăm của anh trở nên gần hơn. Chance ngả người ra sau chiếc ghế và mở cánh cửa phòng làm việc vừa đủ một giây trước khi Nick lao vào nó, cả thân hình bé nhỏ của con bé rung lên với sự vui thích và háo hức.

Con bé phóng cả người vào anh, và anh cố gắng giữ nó trong cánh tay còn lại, kéo nó vào trong lòng. Con bé dừng lại để đặt một cái hôn của bà chị lớn và vỗ nhẹ vào gáy Zack – không hề để ý là thằng bé gần như lớn bằng nó – rồi hướng sự chú ý mãnh liệt trở lại Chance.

“Chú có ở đây lần ày không?” (Chú có ở đây lần này không ) con bé hỏi, thậm chí khi ngước mặt lên cho anh hôn. Anh đã làm thế, dí mũi vào cái má và cổ mềm mại của con bé và khiến nó cười rúc rích, hít vào mùi thơm ngọt ngào thoang thoảng của trẻ con vẫn bám quanh nó.

“Chỉ vài ngày thôi,” anh nói, với sự thất vọng của con bé. Nó đủ lớn để chú ý tới sự vắng mặt dài ngày và thường xuyên của anh, và bất cứ khi nào con bé nhìn thấy anh nó đều cố gằng thuyết phục anh ở lại.

Con bé cau có, rồi trở lại là Nick, nó quyết định chuyển sang những vấn đề quan trọng hơn. Khuôn mặt nó sáng lên. “Chế cháu có thể nhái e bô tô của chú không?” (Thế cháu có thể lái xe mô tô của chú không?)

Sự cảnh báo lóe lên qua anh. “Không,” anh nói chắc chắn.

“Cháu không được lái nó, ngồi lên nó, ngả người trên nó, hoặc đặt bất kỳ đồ chơi nào của cháu lên nó trừ phi chú ở cùng cháu.” Với Nick, cách tốt nhất là đóng lại mọi kẽ hở. Con bé hiếm khi không vâng lời với những mệnh lệnh trực tiếp, nhưng nó là một đứa thiên tài trong việc tìm ra các khe hở để chui qua. Một khả năng khác lại xuất hiện trong đầu anh. “Cháu cũng không thể đặt Cam hoặc Zack lên đó.” Anh nghi ngờ là con bé chẳng thể nhấc được đứa nào trong chúng, nhưng anh không để bất kì một rủi ro nào.

“Cảm ơn,” Barrie nói cụt lủn, bước vào phòng làm việc đúng lúc để nghe được phần thêm vào của anh. Cô nghiêng người xuống để hôn vào má anh, cùng lúc nhấc Zack ra khỏi tay anh để anh có thể tự bảo vệ khỏi chân của Nick. Tất cả những người đàn ông nhà Mackenzie, đã từng hết lần này đến lần khác, trở thành nạn nhân của một bàn chân bé nhỏ vào xương chậu.

“Nhiệm vụ hoàn thành?” Zane hỏi, ngả người ra sau ghế và cười với vợ mình với cái nhìn lười nhác trong đôi mắt xanh nhạt đang nói là anh thích thứ anh đang nhìn thấy.

“Không phải là không có một vài kịch tính và sự thuyết phục, nhưng, vâng, nhiệm vụ hoàn thành.” Cô đẩy một lọn tóc xoăn của mái tóc đỏ ra khỏi mắt. Như thường lệ, cô trông thật thời trang, mặc dù cô không mặc thứ gì sang trọng hơn một cái quần màu be và cái áo sơ mi trắng không tay làm nổi bật hai cánh tay mảnh mai, hơi rám nắng. Anh có thể mang một cô gái ra khỏi trường đào tạo quí tộc, Chance nghĩ một cách ngưỡng mộ, nhưng anh không bao giờ đẩy trường đào tạo quí tộc ra khỏi một cô gái được, và Barrie đã được gửi đến ngôi trường nổi tiếng nhất trên thế giới.

Nick vẫn tập trung vào việc dàn xếp quyền được lái chiếc xe mô tô. Cô bé tóm lại mặt anh ở giữa hai bàn tay và nghiêng xuống để mũi cô bé hầu như chạm vào mũi anh, đảm bảo là có toàn bộ sự chú ý của anh. Anh gần như cười lớn với sự kiên quyết dữ dội trên vẻ mặt con bé. “Cháu tể chú nhái che a ánh của cháu,” (Cháu để chú lái xe ba bánh của cháu) cô bé nói, rõ ràng quyết định phỉnh phờ thay vì đòi hỏi.

“Không hiểu sao anh lại không hiểu câu đó,” Zane thì thầm với vẻ thích thú trong khi Barrie khẽ cười.

“Cháu đã đề nghị để chú lái xe ba bánh của cháu?” Chance chỉnh lại. “Nhưng chú quá to để đi xe ba bánh, và cháu quá nhỏ để lái xe mô tô.”

“Chế khi nào cháu có thể nhái nó?” (Thế khi nào cháu có thể lái nó) cô bé khiến đôi mắt màu xanh mở to và vui vẻ.

“Khi nào cháu có bằng lái xe.”

Điều này đặt cô bé vào tình huống khó xử. Con bé không có ý tưởng thế nào là một cái bằng lái xe, hoặc làm thế nào để có được nó. Con bé chọc một ngón tay vào miệng trong khi cân nhắc tình huống này, và Chance có gắng chuyển hướng sự thích thú của nó. “Này! Có phải cháu đang đi đôi giày mới đúng không?”

Như là một phép màu, khuôn mặt cô bé lại bừng sáng. Nó lách sang bên để anh có thể giữ một chân lên cao gần tới mặt anh đến nỗi con bé hầu như đá vào mũi anh. “úng thật ẹp.” (Chúng thật đẹp) con bé ngân nga trong sự vui sướng.

Anh tóm lấy một cái chân nhỏ xíu trong bàn tay to lớn của mình, ngưỡng mộ đôi giày màu đen sáng bóng bằng da sơn. “Oa, thật là bóng quá chú có thể nhìn thấy mặt mình trong đó này.” Anh giả vờ xem răng của mình khiến con bé cười khúc khích.

Zane nhấc hai chân lên. “Bọn anh sẽ để mấy cậu bé này xuống cho chúng ngủ trong khi chú dành thời gian với con bé.”

Dành thời gian cho Nick không phải là một vấn đề, con bé không bao giờ lúng túng để nói hay làm chuyện gì đó. Anh cuộn một nhúm tóc đen như lụa của con bé vòng quanh ngón tay anh trong khi nó líu lo về đôi giày mới, những con ngựa mới của ông nội, và những điều mà bố đã nói khi anh đập búa vào ngón tay cái. Con bé vui sướng nhắc lại một cách chính xác những điều mà bố nó đã nói, khiến Chance bật cười.

“Nhưng cháu không được ép nói iều ó,” (Nhưng cháu không được phép nói điều đó) cô bé nói, nghiêm trang nhìn anh. “ó là một từ ất ất xấu.” (Đó là một từ rất rất xấu)

“Phải rồi,” anh nói, giọng anh không tự nhiên. “Đúng là thế.”

“Cháu không được ép nói ‘khốn khiếp,’ hay ‘chết tiệt’ hay ‘ngu ngốc’, hay -” (Cháu không được phép nói ‘khốn khiếp’, hay ‘chết tiệt’ hay ngu ngốc’, hay-)

“Vậy thì cháu không nên nói chúng lúc này.” Anh cố gắng để xen vào một sự lưu ý kiên quyết trong giọng mình, mặc dù quả là một sự đấu tranh để giữ không cười lớn.

Cô bé trông bối rối. “Chế làm sao cháu có thể nói cho chú biết ó là gì?” (Thế làm sao cháu có thế nói cho chú biết đó là gì? )

“Có phải bố biết những từ xấu xa đó phải không?”

Cái đầu nhỏ gật dứt khoát. “Bố biết tất cả iều ó.” (Bố biết tất cả điều đó.)

“Chú sẽ bảo bố nói lại cho chú, như thế chú sẽ biết những từ nào không được nói.”

“Otay.” Cô bé thở dài. “Nhưng đừng đánh bố quá mạnh.”

“Đánh bố?”

“ó là ần duy nhất bố nói từ ó, khi bố đánh ngón tay cái bằng ái búa. Bố bảo thế.” (Đó là lần duy nhất bó nói từ đó, khi bố đánh ngón tay cái bằng cái búa. Bố bảo thế.)

Chance cố gắng để chuyển tiếng cười của anh thành tiếng ho. Zane là một cựu SEAL, cách ăn nói của anh chua chát như biển cả mà anh đã quá đỗi quen thuộc, và Chance đã nghe “từ ó,” (từ đó) và tệ hơn, rất nhiều lần từ anh trai mình. Nhưng Mẹ luôn rèn dũa một cách nghiêm khắc tính lịch sự với tất cả những đứa con của bà, vì thế cách ăn nói của họ thận trọng trước mặt phụ nữ và trẻ em. Zane chắc hẳn đã không biết là Nick đang ở đâu đó quanh anh khi anh đập vào ngón tay cái, nếu không chẳng có cơn đau nào có thể khiến anh nói điều đó trong tầm nghe của con bé. Chance chỉ hi vọng là nó sẽ quên điều đó trước khi bắt đầu vào nhà trẻ.

“Cô Mawis ắp có em bé,” (Cô Maris sắp có em bé) Nick nói, trườn lên để đứng trong lòng anh, chân con bé chống lên bắp đùi anh. Chance đặt cả hai tay quanh con bé để giữ chặt nó, mặc dù sự trợ giúp của anh có lẽ là không cần thiết, Nick có sự cân bằng của một diễn viên nhào lộn.

“Chú biết rồi. Bố cháu đã nói cho chú biết.”

Nick cau mày vì đã không là người đầu tiên truyền tin. “Cô ấy ẽ ẻ ngựa con vào ùa uân,” (Cô ấy sẽ đẻ ngựa con vào mùa xuân) cô bé thông báo.

Anh không thể giữ không cười lần này. Anh kéo cô cháu bé nhỏ lại gần anh và đứng lên, xoay con bé vòng quanh và làm nó cười ngặt nghẽo khi nó bám lấy cổ anh. Anh cười cho đến khi hai mắt ướt nhòe. Chúa ơi, anh yêu đứa trẻ này, một đứa bé mới gần ba tuổi đã khiến tất cả họ luôn luôn trong tình trạng báo động, bởi vì không nói được con bé đang chuẩn bị làm gì hay nói gì. Điều này khiến cả gia đình Mackenzie phải để mắt trông chừng con bé.

Đột nhiên con bé ngước mắt lên. “Khi nào à ùa uân? Nó có còn âu, âu nữa ông?” (Khi nào là mùa xuân? Nó có còn lâu, lâu nữa không?)

“Rất lâu,” anh nghiêm trang nói. Bảy tháng là rất nhiều so với một đứa trẻ 3 tuổi.

“Cháu sẽ lớn chứ?”

Anh để vẻ mặt thông cảm và gật đầu. “Cháu sẽ 4 tuổi.”

Cô bé nhìn vừa khiếp sợ vừa cam chịu. “4 tuổi,” con bé buồn rầu nói. “Whodadunkit?”

Khi anh ngưng cười lần này, anh chùi mắt và hỏi, “Ai đã dạy cháu nói whodathunkit?”

“John,” nó nói nhanh.

“Thế nó còn dậy cháu gì nữa không?”

Cô bé gật đầu.

“Gì vậy? Cháu có thể nhớ không?”

Cô bé gật đầu.

“Cháu sẽ nói cho chú biết chứ?”

Cô bé tròn xoe mắt nhìn lên và ngắm nghía cái trần nhà một lúc, rồi dành cho anh cái nhìn nheo mắt. “Chú ẽ ể cháu nhái xe bô tô của chú nhé?” (Chú sẽ để cháu lái xe mô tô của chú nhé?)

Mẹ kiếp, con bé đang mặc cả! Anh run run lo sợ với ý nghĩ về việc con bé sẽ trở nên như thế nào khi nó 16 tuổi. “Không,” anh kiên quyết nói. “Nếu như cháu bị đau, mẹ và bố cháu sẽ khóc, ông bà nội sẽ khóc, chú sẽ khóc, cô Maris sẽ khóc, Mac sẽ khóc, chú Mike sẽ khóc -”

Con bé nhìn có vẻ bị ấn tượng với lời kể khóc lóc tràng giang đại hải đó và cắt ngang trước khi anh nói tên tất cả mọi người trong gia đình. “Cháu có thể ưỡi một con ngựa, ú Dance, thế thì tại sao cháu lại không nhái được e bô tô của chú?” (Cháu có thể cưỡi một con ngựa, chú Dance, thế thì sao cháu lại không lái được xe mô tô của chú?)

Chúa ơi, con bé không hề nao núng. Zane và Barrie đang ở cái chỗ quái quỉ nào thế? Họ đã có khá nhiều thời gian để đưa hai đứa sinh đôi xuống ngủ. Nếu anh hiểu Zane, anh trai anh đang lợi dụng lúc có người giữ trẻ cho Nick để có một khoảng thời gian tình tứ với vợ anh, Zane luôn sẵn sàng để tận dụng những tình huống linh động vì lợi ích của mình.

Mười phút sau, Zane bước trở lại vào phòng làm việc, đôi mắt anh hơi sụp mí và khuôn mặt anh phảng phất vẻ thư giãn. Chance cau có với anh trai mình. Anh đã mất 10 phút cố gắng bảo Nick nói cho anh điều mà John đã dạy con bé, nhưng nó không lay chuyển khỏi sự điều đình ban đầu. “Hơi lâu quá đấy,” anh càu nhàu.

“Này, anh đã nhanh rồi đấy,” Zane phản đối một cách yếu ớt.

“Phải, đúng rồi.”

“Nhanh đến mức có thể,” anh thêm vào, mỉm cười. Anh vuốt nhẹ bàn tay to lớn của mình lên mái tóc đen óng ả của cô con gái. “Có phải con đã giữ cho chú Chance vui vẻ không?

Con bé gật đầu. “Con đã bảo ú ấy ái từ ất, ất xấu mà bố đã nói khi bố tự đánh vào ngón tay cái.” (Con đã nói cho chú ấy cái từ rất rất xấu mà bố đã nói khi bố tự đánh vào ngón tay cái.)

Zane trông đau khổ và rồi nghiêm khắc. “Con đã nói với chú ấy như thế nào khi mà con không được phép nói những từ đó?”

Con bé đưa một ngón tay vào miệng và bắt đầu lại ngắm nghía trần nhà.

“Nick.” Zane giật con bé ra khỏi cánh tay của Chance. “Có phải con đã nói từ đó không?”

Môi dưới của con bé hơi chìa ra, nhưng nó gật đầu, thú nhận sự vi phạm của mình.

“Vậy thì tối nay con không được nghe kể chuyện trước khi ngủ. Con đã hứa là con sẽ không nói từ đó.”

“Con in ỗi,” (Con xin lỗi) con bé nói, vòng tay quanh cổ anh và ngả đầu vào vai anh.

Nhẹ nhàng anh xoa xoa lưng con bé. “Bố biết con thấy có lỗi, con yêu, nhưng con phải giữ lời hứa.” anh thả nó ra. “Đi tìm mẹ đi.”

Khi con bé đi khỏi, vì tò mò Chance hỏi, “Tại sao anh không bảo con bé là nó không thể xem ti vi, thay vì không được nghe kể chuyện trước khi đi ngủ?”

“Bọn anh không muốn sự hấp dẫn của ti vi được dùng làm hình phạt hay khen thưởng. Tại sao? Chú đang ghi chép để trở thành một người bố à?”

Hoảng sợ, Chance nói, “Không phải trong kiếp này.”

“Thật ư? Định mệnh là thứ nhảy lên và cắn vào mông chú khi mà chú ít mong đợi nó nhất.”

“Ồ, cái mông của em hiện giờ đang cấm cắn, và em dự định sẽ giữ nó theo cách đó.” Anh gật đầu về phía tập hồ sơ trên bàn của Zane. “Chúng ta có vài việc lên kế hoạch phải làm.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.