“Sự bình phục của anh gồm ba giai đoạn,” O’Brien nói. “Đó là học hỏi, hiểu biết và chấp nhận. Đến lúc anh bước sang giai đoạn thứ hai.”
Như thường lệ, Winston nằm bẹt ngửa. Nhưng mới đây dây buộc anh lỏng hơn. Dây vẫn cột anh vào giường, nhưng anh hơi cử động được đầu gối, có thể quay đầu từ bên này qua bên kia, và giơ cẳng tay lên được. Đồng hồ cũng bớt là một vật hãi hùng. Anh có thể thoát những nhát nổ của nó nếu anh kịp nhanh trí: O’Brien thường chỉ kéo đòn bẩy nếu anh tỏ ra đần độn. Anh không nhớ đã trải qua bao nhiêu cuộc thẩm vấn. Cả quá trình tuồng như dãn trên một thời gian dài vô hạn — có lẽ hàng tuần — và khoảng cách giữa hai kỳ tra khảo kéo dài khi thì hàng ngày, khi thì chỉ một hai giờ.
“Đương khi anh nằm đây,” O’Brien nói, “anh đã thường tự hỏi — anh đã hỏi cả tôi — tại sao Bộ Tình Yêu lại phí hơi tổn sức với anh. Và khi còn tự do anh từng thắc mắc về một vấn đề có bản chất tương tự. Anh thấu được cơ cấu của Xã hội quanh anh, nhưng anh không hiểu nổi động cơ nằm dưới. Anh có nhớ không, anh đã viết trong nhật ký của anh: “Tôi hiểu như sao: tôi không hiểu tại sao ? Chính khi nghĩ về “tại sao” anh đã ngờ vực sự lành mạnh của chính anh. Anh đã đọc quyển sách, sách của Goldstein, hay ít nhất một phần cuốn ấy. Nó có dạy anh điều gì anh chưa biết không ?”
“Ông đọc nó rồi ư ?” Winston hỏi.
“Tôi viết ra nó. Có nghĩa là tôi dự vào việc soạn thảo nó. Như anh biết, không hề có sách do cá nhân sản xuất.”
“Những điều nói trong sách có đúng không ?”
“Phần tả cảnh thì đúng. Chương trình nêu ra thì phi lý. Tích lũy sự hiểu biết một cách thầm kín — phổ biến dần dần ánh sáng — sau cùng dân đen nổi dậy — để rồi Đảng bị lật đổ. Chính anh cũng tiên đoán nó sẽ bảo vậy. Toàn là chuyện phi lý. Dân đen sẽ không bao giờ nổi dậy, dù hàng ngàn hay hàng triệu năm nữa. Họ không thể làm thế. Tôi không cần cho anh biết lý do: anh thừa biết. Nếu anh từng ôm mộng sẽ có một cuộc khởi nghĩa bằng bạo lực, anh nên dẹp nó đi. Không có cách nào khiến cho Đảng bị lật đổ. Đảng sẽ thống trị mãi mãi. Lấy đó làm điểm sơ khởi cho sự suy tư của anh.”
Ông ta tiến lại gần giường hơn. “Mãi mãi !” ông nhắc lại. “Thôi bây giờ hãy trở lại vấn đề “như sao” và “tại sao”. Anh hiểu khá rõ Đảng duy trì quyền lực như sao. Giờ anh hãy nói tôi nghe tại sao chúng tôi bám vào quyền lực. Động cơ của chúng tôi là gì ? Tại sao chúng tôi muốn có quyền lực ? Anh nói đi nào,” ông chua thêm khi thấy Winston im lặng.
Tuy nhiên Winston không lên tiếng trong một hai lát. Một cảm giác rã rời tràn ngập anh. Ánh nhiệt tình hơi điên dại đã tái hiện trên mặt O’Brien. Anh biết trước O’Brien sẽ nói gì. Rằng Đảng không tranh quyền vì mục đích riêng mà vì hạnh phúc của đa số. Rằng Đảng tranh quyền vì đám dân gồm trong quần chúng là những dân mảnh dẻ nhát hèn không thể chịu đựng được tự do hay đối diện được sự thật, phải bị cai trị và lường gạt bởi những kẻ khác mạnh hơn. Rằng loài người phải chọn giữa tự do và hạnh phúc, và đối với đại đa số nhân loại hạnh phúc đáng quý hơn. Rằng Đảng là thần hộ mệnh vĩnh viễn của kẻ yếu, là một giáo phái hiến mình cho việc ác để sinh ra điều thiện, hy sinh hạnh phúc của chính mình cho hạnh phúc của kẻ khác. Điều hãi hùng, Winston nghĩ, điều hãi hùng là khi O’Brien nói thế anh sẽ tin thế. Có thể thấy rõ điều đó trên mặt ông. O’Brien biết hết mọi sự. Hơn Winston cả ngàn lần, ông biết thế giới thực sự ra sao, đám đông quần chúng sống bệ rạc đến đâu, và Đảng giữ họ trong tình trạng ấy nhờ những sự gian dối dã man nào. Anh đã hiểu cả, đã cân nhắc hết, không can dự gì: cứu cánh biện bạch cho mọi sự. Làm sao, Winston nghĩ, chống lại nổi một kẻ điên khùng thông minh hơn mình nhiều, chịu nghe luận cứ của mình nhưng sau đó vẫn khăng khăng giữ óc điên khùng ?
“Các ông thống trị chúng tôi vì hạnh phúc của chúng tôi,” anh khẽ nói. “Các ông tin rằng con người không đủ tư cách để tự cai trị, cho nên —”
Anh giật mình gần thét lên. Một cơn đau buốt xuyên qua người anh. O’Brien đã đẩy đòn bẩy đồng hồ lên tới số ba mươi nhăm.
“Thật ngu xuẩn, Winston, thật ngu xuẩn !” ông ta nói. “Đáng nhẽ anh phải biết trả lời hay hơn vậy.”
Ông kéo đòn bẩy trở lại và nói tiếp:
“Để tôi giải đáp câu hỏi cho anh. Như thế này này. Đảng tranh quyền hoàn toàn vì quyền mà thôi. Chúng tôi không màng tới hạnh phúc của kẻ khác; chúng tôi chỉ quan tâm đến quyền hành. Không cần giàu có, sang trọng, sống lâu hay hạnh phúc: chỉ muốn quyền lực, quyền lực thuần túy. Quyền lực thuần túy là gì, anh sẽ hiểu ngay. Chúng tôi khác các chính thể quả đầu trong quá khứ ở cái chúng tôi biết hành động của chúng tôi. Các dân quả đầu khác, ngay cả các nhóm giống chúng tôi, toàn là bọn hèn nhát và đạo đức giả. Nhóm Đức Quốc Xã và Cộng Sản Nga rất gần chúng tôi về phương pháp, nhưng họ không bao giờ có can đảm công nhận động cơ của chính họ. Họ tuyên bố, có lẽ họ cũng tin vậy, họ miễn cưỡng giành quyền trong một thời gian hạn định, kế đó là thiên đàng trong đó con người được tự do bình đẳng. Chúng tôi không thế. Chúng tôi biết không bao giờ có ai chiếm quyền với ý định từ bỏ nó. Quyền hành không phải là phương tiện, nó là cứu cánh. Người ta không lập chế độ độc tài để bảo vệ cách mạng; người ta làm cách mạng để thiết lập chế độ độc tài. Mục đích của sự đàn áp là đàn áp. Mục đích của sự tra tấn là tra tấn. Mục đích của quyền hành là quyền hành. Bây giờ anh bắt đầu hiểu chưa ?”
Winston bị xúc động, như anh đã từng bị xúc động trước đây, bởi nét mệt mỏi trên mặt O’Brien. Mặt ông chắc mạnh, đẫy đà và thô bạo, nó đầy vẻ thông minh và một thứ nhiệt huyết bị kiềm chế khiến anh cảm thấy bất lực trước nó; nhưng nó mệt mỏi. Dưới mắt ông sưng húp, da ông xệ xuống từ gò má. O’Brien cúi người xuống anh, cố ý đưa khuôn mặt rã rời lại gần.
“Anh đang nghĩ rằng mặt tôi già nua mệt mỏi,” ông ta nói. “Anh cho rằng tôi bàn về quyền lực, thế nhưng tôi không cản nổi ngay sự suy sút của thể xác tôi. Anh không hiểu được ư, Winston, cá nhân chỉ là một tế bào ? Sự hao mòn của tế bào chính là sự cường tráng của cơ thể. Anh có chết đi khi anh cắt móng tay không ?”
Ông quay lưng về phía giường và bắt đầu bước lên bước xuống trở lại, một tay thọc vào túi.
“Chúng tôi là giáo sĩ của quyền lực,” ông nói. “Thiên chúa là quyền lực. Hiện trong chừng mực nó liên quan đến anh nó chỉ là một danh từ. Đã tới lúc anh hội ý quyền lực là gì. Điều đầu tiên anh phải ý thức là quyền lực thuộc tập thể. Cá nhân chỉ có quyền lực trong chừng mực họ thôi là cá nhân. Anh biết khẩu hiệu của Đảng: “Tự do là nô lệ”. Anh có bao giờ nghĩ rằng khẩu hiệu ấy có thể được đảo ngược lại không ? Nô lệ là tự do. Một mình — tự do — con người luôn luôn thất bại. Phải thế, vì ai ai cũng bó buộc phải chết, mà phận ấy là sự thất bại lớn lao nhất. Nhưng nếu con người biết phục tùng cực kỳ trọn vẹn, biết thoát ly hằng tính, nếu biết hòa vào Đảng khiến mình là Đảng, con người sẽ toàn năng và bất tử. Điều thứ hai anh phải hiểu là quyền lực có nghĩa là quyền hành trên con người. Trên thể xác, nhưng trước hết, trên tinh thần. Quyền hành trên vật chất — trên thực tế bên ngoài, theo văn chương anh — không quan trọng. Sự kiểm soát vật chất của chúng tôi đã tuyệt đối rồi.”
Trong một lúc Winston không tưởng đến cái đồng hồ. Anh mạnh mẽ ra sức vươn mình ngồi dậy, nhưng chỉ tổ làm cho cơ thể anh quặn đau.
“Nhưng các ông kiểm soát vật chất thế nào được ?” anh thốt lên. “Ngay khí hậu hay định luật về sức hút các ông cũng không sai khiến nổi. Còn nào là bệnh hoạn, đau đớn, chết chóc —”
O’Brien đưa tay ra lệnh cho anh im. “Chúng tôi kiểm soát vật chất vì chúng tôi kiểm soát trí óc. Thực tế nằm trong sọ người. Anh sẽ học dần dần, Winston ạ. Không có gì mà chúng tôi không làm được. Thuật vô hình, thuật bay bổng — bất cứ gì. Tôi có thể rời sàn nhà phất phới như bọt xà phòng nếu tôi muốn. Tôi không muốn vậy, vì Đảng không muốn vậy. Anh phải từ bỏ các tư tưởng thuộc thế kỷ mười chín về định luật Thiên Nhiên. Chúng tôi làm ra định luật Thiên Nhiên.”
“Nhưng các ông có làm ra chúng đâu ! Các ông không làm chủ nổi trái đất nữa kìa. Còn Âu Á với Đông Á thì sao ? Anh ông chưa chiếm nổi những nước ấy.”
“Không quan trọng. Chúng tôi sẽ chiếm những nước ấy khi nào chúng tôi muốn. Nhưng nếu chúng tôi không chiếm được, có khác gì đâu ? Chúng tôi có thể tước sự hiện hữu của những nước ấy. Đại Dương là thế giới.”
“Nhưng chính thế giới chỉ là một hạt bụi. Và con người nhỏ xíu — bất lực ! Đã từ bao lâu con người sinh ra đời ? Mấy triệu năm trước trái đất không chứa sinh vật nào.”
“Bậy nào. Trái đất bằng tuổi loài người, không già hơn. Làm sao già hơn được ? Không có gì hiện hữu nếu không được con người ý thức.”
“Nhưng các mỏm đá đầy xương của các thú vật đã tuyệt giống — voi ma mút, voi răng mấu, và các loài bò sát khổng lồ sống đã lâu năm trên trái đất này trước khi thấy nói tới con người.”
“Anh đã thấy những bộ xương đó bao giờ chưa, Winston ? Cố nhiên là chưa. Các nhà sinh học thuộc thế kỷ mười chín bịa đặt ra chúng. Trước con người không có gì cả. Sau con người, nếu con người tuyệt vong, sẽ không có gì. Ngoài con người ra không có gì cả.”
“Nhưng cả vũ trụ ở ngoài chúng ta. Cứ nhìn vào các vì sao. Có sao xa chúng ta đến cả triệu năm ánh sáng. Chúng vĩnh viễn ở ngoài tầm tay của chúng ta.”
“Sao là cái thứ gì ?” O’Brien thờ ơ nói. “Chúng chỉ là những mẩu lửa cách xa đây vài cây số. Chúng tôi có thể với lấy chúng nếu chúng tôi muốn. Hay chúng tôi có thể xóa chúng đi. Trái đất là trung tâm vũ trụ. Mặt trời và các sao quay vòng quanh nó.”
Winston lại co giật người. Lần này anh không nói gì. O’Brien tiếp tục như thể đáp lại một lời phản đối:
“Trong vài trường hợp dĩ nhiên điều đó không đúng. Khi đáp tàu trên biển cả hay tiên đoán thiên thực, thường thấy cho rằng trái đất quay quanh mặt trời cũng như các sao cách đây cả triệu triệu cây số tiện lợi hơn. Nhưng thế thì đã sao ? Bộ anh tưởng chúng tôi không đủ tư cách chế ra một hệ thống thiên văn lưỡng hợp chắc ? Các sao ở xa hay gần tùy theo nhu cầu của chúng tôi. Anh tưởng các nhà toán học của chúng tôi không đủ tài chăng ? Anh quên ý đôi rồi à ?”
Winston co rụt người lại trên giường. Anh có nói gì chăng nữa, câu đáp mau lẹ cũng đập xuống anh chẳng khác dùi cui. Song le, anh biết, anh biết anh có lý. Cái niềm tin không có gì hiện hữu ngoài trí óc ấy — chắc phải có một cách chứng minh nó sai lầm. Hồi xưa nó chẳng được giảng dạy như một sự sai lạc là gì ? Có cả tên để chỉ nó, nhưng anh đã quên mất. Một nụ cười nhẹ nhếch mép miệng O’Brien khi ông nhìn xuống anh.
“Tôi đã bảo anh rằng siêu hình học không phải là sở trường của anh, Winston,” ông nói. “Danh từ mà anh cố nhớ ra là thuyết duy ngã. Nhưng anh lầm. Đây không phải là thuyết duy ngã. Hay thuyết duy ngã tập thể, nếu anh muốn. Mà đây là một thuyết khác hẳn: nói cho đúng, nó là một thuyết trái ngược hẳn. Các điều trên xa đề cả,” ông đổi giọng nói thêm. “Quyền lực thực sự, quyền lực vì chưng chúng tôi tranh đấu đêm ngày không phải là quyền trên sự vật mà là quyền trên con người.” Ông ngưng nói, và trong một lát lấy lại sắc mặt của ông thầy giáo vặn hỏi một học trò đầy hứa hẹn: “Người ta khẳng định uy quyền trên kẻ khác ra sao, Winston ?”
Winston suy nghĩ. “Bằng cách làm cho họ đau khổ,” anh nói.
“Đúng. Bằng cách làm cho họ đau khổ. Sự tuân lệnh không đủ. Trừ phi họ đau khổ, nếu không làm sao chắc được họ tuân theo ý mình chứ không phải theo ý họ ? Quyền lực ở trong sự bắt chịu đau đớn và nhục nhằn. Quyền lực ở trong sự xé trí óc con người ra từng mảnh rồi chắp chúng lại thành hình mới mẻ do mình lựa chọn. Thế anh đã bắt đầu hiểu chúng tôi đang tạo một kiểu thế giới nào chưa ? Nó trái ngược hẳn với các chính thể hoan lạc Không Tưởng ngớ ngẩn do các các nhà cải lương xưa tưởng tượng ra. Một thế giới của lòng sợ hãi và gian dối day dứt, một thế giới của những kẻ chà đạp và bị chà đạp, một thế giới càng tinh luyện càng không bớt mà thêm tàn nhẫn. Tiến bộ trong thế giới của chúng tôi là tiến bộ tới một mức đau khổ lớn hơn. Các nền văn minh xưa được tuyên bố thành lập trên tình thương và công lý. Nền văn minh của chúng tôi dựa trên lòng thù hận. Trong thế giới của chúng tôi không có cảm xúc nào ngoài sự sợ hãi, sự hằn học, sự đắc thắng, và sự hạ mình. Mọi sự khác sẽ bị chúng tôi hủy diệt hết. Chưa chi chúng tôi đã phá những tập quán tư tưởng sống sót từ trước Cách Mạng. Chúng tôi đã cắt đứt sợi dây liên lạc giữa cha mẹ con cái, giữa con người và con người, giữa đàn ông và đàn bà. Không còn ai dám tin tưởng vợ con hay bạn bè. Mà trong tương lai sẽ không còn vợ và bạn. Trẻ con sẽ bị bắt rời mẹ ngay khi lọt lòng như ta lấy trứng của gà mái. Bản năng giới tính sẽ bị trừ tiệt. Việc sinh sản sẽ thành một thủ tục hàng năm, giống như sự thay đổi thẻ khẩu phần mới. Chúng tôi sẽ loại trừ sự cực khoái trong giao cấu. Các nhà thần kinh học của chúng tôi đang nghiên cứu chuyện đó. Sẽ không còn lòng trung, trừ lòng trung đối với Đảng. Sẽ không còn tình yêu, ngoài tình yêu đối với Bác. Sẽ không còn tiếng cười, trừ tiếng cười đắc thắng trước một kẻ thù bị bại. Sẽ không có nghệ thuật, không có văn chương, không có khoa học. Một khi toàn năng, chúng tôi sẽ không còn cần khoa học. Sẽ không có sự khác biệt giữa sắc đẹp và sắc xấu. Sẽ không có lòng hiếu kỳ, không có lòng vui sướng hưởng sống. Mọi thú vui tranh đua sẽ bị tiêu diệt. Nhưng mãi mãi — chớ có quên điều này, Winston — mãi mãi sẽ còn lòng say nghiện quyền thế, luôn luôn gia tăng, luôn luôn thêm phần tinh tế. Mãi mãi, bất cứ lúc nào, sẽ có lòng rung động vì đắc thắng, cảm giác về sự giày xéo một kẻ thù bất lực. Nếu anh muốn một hình ảnh về tương lai, hãy tưởng tượng một chiếc giầy ống nện trên mặt người — đời đời nện giẫm.”
Ông ngưng nói như thể đợi Winston lên tiếng. Nhưng anh cố co chùn người lại trên mặt giường. Anh không thể nói gì. Tim anh hầu như đóng băng. O’Brien tiếp tục:
“Và anh hãy nhớ rằng đời đời sẽ vậy. Mặt người sẽ luôn luôn có đó để bị giẫm lên. Kẻ dị giáo, kẻ thù xã hội, luôn luôn có đó để bị đánh bại và làm nhục hết rồi lại nữa. Mọi điều anh phải trải qua từ khi vào tay chúng tôi — mọi sự ấy sẽ tiếp tục và tệ hơn. Tội gián điệp, tội phản loạn, sự bắt bớ, sự tra tấn, sự hành quyết, sự mất tích, sẽ không bao giờ chấm dứt. Đây sẽ là thế giới của sự hãi hùng cũng như của sự đắc thắng. Đảng càng mạnh, Đảng càng ít khoan dung: sự đối lập càng yếu, sự chuyên chế càng gay gắt. Goldstein và các tà thuyết của hắn sẽ vĩnh cửu. Ngày nào, lúc nào, chúng cũng bị đánh bại, đả phá, nhạo báng, phỉ nhổ — nhưng chúng sẽ vẫn tồn tại. Tấn bi kịch tôi đóng với anh trong bẩy năm trời sẽ được diễn đi diễn lại, hết thế hệ này sang thế hệ kia, luôn luôn thêm phần tinh tế về hình thức. Mãi mãi tại nơi đây, chúng tôi sẽ mặc sức xử trị kẻ theo tà thuyết, cho hắn hét lên vì đau đớn, cho hắn kiệt quệ, tới độ đáng khinh — và tận cùng, hoàn toàn ăn năn, thoát khỏi chính mình, tự ý quỳ dưới chân chúng tôi. Đó là thế giới mà chúng tôi sắp dặt đó, Winston. Một thế giới của hết thắng lợi này đến thắng lợi kia, hết đắc thắng này đến đắc thắng kia: một áp lực không ngưng, áp mãi, áp mãi trên gân cốt quyền lực. Coi bộ anh đang bắt đầu hiểu thế giới ấy sẽ như thế nào. Nhưng sau cùng anh sẽ hơn cả hiểu biết. Anh sẽ chấp nhận nó, đón mừng nó, trở thành một bộ phận của nó.”
Winston đã lấy lại đủ bình tĩnh để lên tiếng. “Các ông không làm thế được !” anh thều thào nói.
“Anh muốn nói gì với nhận xét đó, Winston ?”
“Các ông không thể tạo được một thế giới như ông vừa tả. Đó là một giấc mơ. Nó không thể có được.”
“Tại sao ?”
“Không thể dựng được một nền văn minh trên sự sợ hãi, hận thù và bạo tàn. Nó không thể sống lâu.”
“Tại sao không ?”
“Nó sẽ không có sức sống. Nó sẽ tan rã. Nó sẽ tự sát.”
“Bậy nào. Anh còn ấn tượng rằng hận thù làm kiệt sức hơn tình yêu. Làm sao lại phải thế ? Mà nếu vậy thì đã sao ? Cho là chúng tôi muốn kiệt sức nhanh hơn. Cho là chúng tôi thúc mau nhân sinh tới độ con người đã già vào cỡ ba mươi. Vẫn vậy thì đã làm sao ? Anh không thể hiểu rằng cái chết của cá nhân không phải là chết ư ? Đảng bất tử.”
Như thường lệ, giọng nói đã đập Winston vào thế bất lực. Hơn thế nữa, anh e sợ O’Brien sẽ vặn đồng hồ trở lại nếu anh khăng khăng phản đối. Ấy thế mà anh không thể im lặng được. Một cách yếu đuối, dù không có luận cứ, không có gì hỗ trợ anh ngoài sự ghê rợn không thốt ra được của anh đối với những điều do O’Brien khẳng định, anh tấn công trả lại.
“Tôi không biết — tôi bất cần. Thế nào các ông cũng sẽ thất bại. Sẽ có cái gì đánh bại các ông. Đời sống sẽ đánh bại các ông.”
“Chúng tôi kiểm soát đời sống ở mọi mức độ, Winston à. Anh đang tưởng tượng có cái gì gọi là nhân bản sẽ bị xúc phạm bởi việc làm của chúng tôi và sẽ phản công lại chúng tôi. Nhưng chúng tôi tạo ra nhân bản. Con người dễ dát vô cùng. Hay có lẽ anh đã quay về ý cũ của anh cho rằng dân đen hay nô lệ sẽ nổi dậy lật đổ chúng tôi. Anh dẹp ý tưởng đó đi. Họ bất lực, tựa như súc vật. Nhân loại là Đảng. Những kẻ khác ở ngoài — không đáng nhắc tới.”
“Tôi bất kể. Tận cùng họ sẽ đánh bại các ông. Sớm muộn gì họ cũng sẽ thấy rõ bộ mặt thực của các ông, và lúc đó họ sẽ phanh thây các ông ra từng mảnh.”
“Anh có thấy dấu hiệu nào chỉ rằng điều đó sẽ xảy ra không ? Hay lý do nào khiến nó sẽ phải xảy ra chăng ?”
“Không. Tôi tin vậy. Tôi biết các ông sẽ thất bại. Có một cái gì trong vũ trụ — tôi không rõ, kiểu như tinh thần, hay nguyên lý — các ông không bao giờ chế ngự nổi.”
“Anh có tin có Chúa Trời không, Winston ?”
“Không.”
“Thế thì cái nguyên lý sẽ đánh bại chúng tôi là gì vậy ?”
“Tôi không biết. Thần linh của Giống Người.”
“Thế anh có coi chính anh là người không ?”
“Có.”
“Nếu anh là người, Winston ạ, anh là con người cuối cùng. Loại người như anh đã tuyệt giống; chúng tôi là kẻ thừa kế. Anh có hiểu rằng anh cô độc không ? Anh ở ngoài lịch sử, anh không hiện hữu.” Điệu bộ O’Brien thay đổi và ông nói xẵng hơn: “Chắc hẳn anh coi anh có luân lý hơn chúng tôi vì chúng tôi lừa dối và ác độc ?”
“Phải, tôi cho tôi hơn các ông.”
O’Brien không nói. Hai giọng khác lên tiếng. Sau một lúc Winston nhận ra một giọng chính là giọng mình. Đó là bản thâu thanh câu chuyện giữa anh và O’Brien đêm anh gia nhập Hội Tình Thân. Anh nghe thấy mình hứa sẽ nói dối, ăn cắp, giả mạo, ám sát, khuyến khích sự nghiện ngập và mãi dâm, truyền bá bệnh hoa liễu, tạt cường toan vào mặt trẻ nít. O’Brien hơi có một cử chỉ sốt ruột, ý như muốn bảo sự chứng minh không mấy xứng đáng. Rồi ông ta ấn vào một nút và hai giọng kia ngưng.
“Đứng dậy ra khỏi giường,” ông ra lệnh.
Dây buộc tự tháo ra. Winston cúi người xuống sàn và chập choạng đứng dậy.
“Anh là con người cuối cùng,” O’Brien nói. “Anh là kẻ gìn giữ thần linh của giống người. Anh sẽ thấy anh thực sự ra sao. Cởi quần áo ra.”
Winston tháo sợi dây nối liền bộ áo liền quần của anh. Khóa kéo của bộ quần áo đã bị giựt đi từ lâu. Anh không nhớ từ khi anh bị bắt đã có lần nào anh cởi hết quần áo cùng một lúc chưa. Dưới bộ áo liền quần cơ thể anh được quấn với giẻ vàng úa bẩn thỉu, khó nhận ra được là quần áo lót sót lại. Đương lúc tuột cả xuống đất, anh thấy có một tấm gương ba mặt ở tận cuối phòng. Anh tiến lại gần nó, rồi bỗng dừng phắt chân lại. Một tiếng kêu không chủ ý buột khỏi miệng anh.
“Tiến lên,” O’Brien nói. “Đứng giữa hai cánh gương. Anh sẽ thấy thêm cả hình nghiêng.”
Anh đã dừng bước vì anh khiếp sợ. Một vật xám, khom, giống như bộ xương người đang tiến về phía anh. Hình dáng nó đáng sợ thật, chứ không phải chỉ sự anh biết đó chính là anh làm anh sợ. Anh tiến lại gần tấm gương hơn. Khuôn mặt của sinh vật gồ ra vì thân hình còng lại. Một khuôn mặt thiểu não của kẻ tù tội với vừng trán hói rút về một cái đầu trọc, với cái mũi lệch cùng đôi gò má hóp ở dưới một cặp mắt hung dữ chòng chọc. Má thì nhăn nheo, miệng gần như mím lại. Chắc chắn đấy là khuôn mặt của chính anh, nhưng anh thấy nó thay đổi nhiều hơn tinh thần anh. Những xúc cảm ghi trên nó có vẻ khác những xúc cảm đã xâm nhập anh. Anh đã đâm hói đầu. Thoạt đầu anh còn tưởng anh đã bạc đầu, nhưng hóa ra da đầu anh màu xám. Trừ tay và một vòng trên mặt anh, khắp thân thể anh xám xịt vì ghét lưu cữu, bám chặt. Đó đây dưới ghét bụi có nhiều vết thương đỏ lòm, và ở gần đầu gối vết loét giãn tĩnh mạch là một khối sưng vù tróc da từng mảnh. Nhưng điều thật hãi hùng là sự hốc hác của thân thể anh. Lồng ngực anh hẹp như lồng xương sườn: cẳng anh thóp lại khiến đầu gối anh to hơn đùi anh. Bây giờ anh hiểu O’Brien ám chỉ gì khi bảo anh nhìn hình nghiêng. Đường cong của xuơng sống anh coi lạ lùng. Đôi vai mỏng còng ra trước như để làm khoang cho ngực, cái cổ trơ xương trĩu xuống gấp hai dưới sức nặng của sọ. Ước chừng anh có thể nói đó là thân thể của một ông già sáu mươi, đang bị hành bởi một chứng bệnh nan y.
“Thỉnh thoảng anh vẫn cho rằng mặt tôi — mặt của một thành viên Đảng Trong — coi vẻ già nua,” ông nói. “Anh nghĩ gì về bộ mặt của chính anh đây ?”
Ông ta nắm vai Winston, quay người anh lại cho ông ta nhìn thẳng vào mặt anh.
“Hãy xem tình trạng anh !” ông ta nói. “Hãy xem lớp bụi phủ khắp người anh. Xem chất ghét giữa ngón chân anh. Xem vết loét ghê tởm lan rộng trên chân anh. Anh có biết anh hôi như trù không ? Có lẽ anh hết để ý đến điều ấy. Xem sự hốc hác của anh. Anh thấy không ? Tôi có thể lấy ngón tay tôi vòng bắp tay anh. Tôi có thể bẻ gẫy cổ anh như bẻ cà rốt. Anh có biết anh sụt mất hai mươi nhăm ký từ khi anh lọt vào tay chúng tôi không ? Cả tóc anh cũng rụng mất từng nắm. Coi !” Ông ta vò đầu Winston lấy ra một mớ tóc. “Há miệng ra nào. Còn có chín, mười, mười một cái răng. Anh có bao nhiêu cái khi anh vào đây với chúng tôi ? Mà mấy cái còn lại sắp rớt khỏi đầu anh. Xem này !”
Ông ta bắt một chiếc răng cửa còn lại của Winston giữa hai ngón tay cái và tay trỏ mạnh mẽ của ông. Một cơn đau nhói xuyên qua hàm Winston. O’Brien đã vặn rứt rễ chiếc răng long. Ông ta quẳng nó qua xà lim.
“Anh đang mủn thối,” ông ta nói. “Anh đang rã mục. Anh là gì ? Một cái bị dơ dáy. Xoay người lại rồi nhìn vào gương lần nữa đi nào. Anh có thấy cái vật trước mặt anh không ? Đó là con người cuối cùng đấy. Nếu anh là người, nhân loại thế đấy. Thôi, mặc quần áo trở lại.”
Winston mặc quần áo vào với những cử động chậm chạp cứng đờ. Tới bây giờ hình như anh chưa nhận thấy mình gầy yếu đến chừng nào. Chỉ có một ý nghĩ xoay vần trong óc anh: chắc anh đã ở chốn này lâu hơn anh tưởng. Rồi bất thình lình đương lúc ngắm mớ giẻ quanh anh, một nỗi thương tâm đối với tấm thân điêu tàn của mình tràn ngập anh. Trước khi biết mình làm gì anh đã ngã sụp xuống một chiếc ghế đẩu nhỏ cạnh giường òa lên khóc. Anh ý thức sự xấu xí kệch cỡm của mình, một đống xương bận áo lót bẩn thỉu ngồi khóc dưới ánh đèn trắng toát: nhưng anh không dằn được. O’Brien đặt một tay trên vai anh, gần như ái ngại.
“Không mãi mãi thế này đâu,” ông nói. “Anh có thể thoát cảnh này khi nào anh muốn. Mọi sự tùy thuộc anh.”
“Ông xui ra thế !” Winston sụt sùi. “Ông dìm tôi vào trạng thái này.”
“Không, Winston, chính anh tự dìm anh vào đó. Đấy là sự anh chấp nhận khi anh bắt tay chống lại Đảng. Mọi sự được chứa trong hành động đầu tiên ấy. Không có gì xảy ra mà anh không biết trước.”
Ông tạm ngưng rồi tiếp tục:
“Chúng tôi đã đánh bại anh, Winston. Chúng tôi đã hủy hoại anh. Anh đã thấy thân thể anh ra sao. Tinh thần anh cũng cùng tình trạng. Tôi không cho là anh có thể còn nhiều kiêu hãnh. Anh đã bị đấm, bị quật, bị chửi, anh đã hét vì đau đớn, anh đã lăn lộn trên sàn trong máu và chất mửa của anh. Anh đã khóc lóc xin tha, anh đã phản bội mọi người, mọi sự. Anh có thể nghĩ được ra một hành động đê tiện chưa do anh làm không ? ”
Winston đã ngưng khóc mặc dầu anh vẫn nhỏ nước mắt. Anh nhìn lên O’Brien.
“Tôi đã không phản Julia,” anh nói.
O’Brien trầm ngâm nhìn xuống anh. “Không,” ông bảo; “không; điều đó hoàn toàn đúng. Anh đã không phản Julia.”
Lòng tôn kính đặc biệt đối với O’Brien, mà không có gì có vẻ diệt nổi, tràn ngập trở lại tim Winston. Thông minh biết bao, anh nghĩ, thông minh biết bao ! Bao giờ O’Brien cũng hiểu những điều nói với ông. Ai khác trên thế gian cũng đã nhanh nhẩu trả lời rằng anh đã phản Julia. Vì có gì mà chúng chẳng vặn khỏi anh dưới cực hình ? Anh đã nói cho chúng mọi điều anh biết về nàng, những thói quen của nàng, tính nết nàng, quá khứ của nàng; anh đã khai với từng chi tiết tầm thường nhất mọi sự xảy ra trong những cuộc họp mặt của anh với nàng, mọi điều anh nói với nàng và nàng với anh, những bữa cơm chợ đen của hai người, tình yêu vụng trộm của anh và nàng, những mưu toan mơ hồ của hai người chống Đảng — mọi sự. Song le, theo nghĩa anh dùng cho danh từ, anh đã không phản nàng. Anh đã không ngưng yêu nàng; tình cảm của anh đối với nàng vẫn y nguyên. O’Brien đã hiểu anh muốn nói gì không cần anh giải thích.
“Xin ông cho biết khi nào tôi bị bắn ?” anh hỏi.
“Có thể còn lâu,” O’Brien nói. “Anh là một ca khó. Nhưng đừng thất vọng. Rồi ai cũng khỏi bệnh chẳng sớm thì muộn. Sau cùng chúng tôi sẽ bắn anh.”